Bước tới nội dung

Thành viên:VMQ123/Nháp/4

Bách khoa toàn thư mở Wikipedia
Sia
Sia biểu diễn tại Seattle, Washington, năm 2011.
SinhSia Kate Isobelle Furler
18 tháng 12, 1975 (48 tuổi)
Adelaide, Nam Úc, Úc
Nghề nghiệp
Phối ngẫu
Erik Anders Lang (cưới 2014–2016)
Sự nghiệp âm nhạc
Thể loại
Năm hoạt động1990–nay
Hãng đĩa
Hợp tác với
Websitesiamusic.net
Chữ ký

Sia Kate Isobelle Furler (/[invalid input: 'icon']ˈsə/ SEE; sinh ngày 18 tháng 12 năm 1975), hay thường được biết đến với cái tên ngắn gọn là Sia, là một ca sĩ kiêm sáng tác nhạc và đạo diễn video âm nhạc người Úc.[1] Cô bắt đầu sự nghiệp ca hát của mình với vai trò là một thành viên trong ban nhạc acid jazz mang tên Crisp vào giữa những năm 1990 tại thành phố Adelaide. Năm 1997, Crisp tan rã, Sia cho phát hành album phòng thu đầu tay của cô có tựa đề OnlySee ở Úc. Sau đó, nữ ca sĩ chuyển qua thành phố London, Anh sinh sống và tham gia nhóm nhạc hai người mang quốc tịch Anh Zero 7 với vai trò là hát chính. Năm 2000, Sia phát hành album phòng thu thứ hai Healing Is Difficult thông qua hãng đĩa Columbia Records và vào năm 2004, cô cho ra mắt album phòng thu thứ ba Colour the Small One, nhưng cả hai đều không thể đáp ứng được những gì khán giả mong muốn.

Sia đến Thành phố New York vào năm 2005 và đi lưu diễn vòng quanh Hoa Kỳ. Album phòng thu thứ tư và thứ năm của nữ ca sĩ, lần lượt mang tên Some People Have Real ProblemsWe Are Born, được ra mắt vào lần lượt các năm 2008 và 2010. Cả hai album sau đó đã được cấp chứng nhận Vàng bởi Hiệp hội Công nghiệp Ghi âm Úc (ARIA) và đạt được nhiều sự chú ý hơn so với những album trước đây của cô. Một thời gian sau, vì cảm thấy không thoải mái với danh tiếng của bản thân, Sia quyết định nghỉ biểu diễn âm nhạc và tập trung vào việc viết các ca khúc cho các nghệ sĩ khác, cho ra đời nhiều nhạc phẩm thành công như "Titanium" (cùng với nam nhà sản xuất thu âm David Guetta), "Diamonds" (do nữ ca sĩ Rihanna trình bày) và "Wild Ones" (cùng với nam ca sĩ Flo Rida).

Năm 2014, Sia tạo nên một bước đột phá trong sự nghiệp là một nghệ sĩ thu âm độc tấu với album phòng thu thứ sáu 1000 Forms of Fear. Nó đạt vị trí quán quân trên bảng xếp hạng Billboard 200 Hoa Kỳ và bao gồm đĩa đơn được lọt vào top 10 tại nhiều quốc gia mang tên "Chandelier". Bộ ba video âm nhạc với sự tham gia của nữ vũ công Maddie Ziegler cũng đã được ra mắt không lâu sau đó. Năm 2016, album phòng thu thứ bảy của nữ ca sĩ với tựa đề This Is Acting được chính thức ra mắt công chúng. Đĩa đơn thứ hai của album, "Cheap Thrills" đã mang lại cho Sia vị trí đầu bảng đầu tiên trên bảng xếp hạng Billboard Hot 100 Hoa Kỳ. Cũng trong năm này, Sia khởi động chuyến lưu diễn Nostalgic for the Present Tour, với các màn biểu diễn được phụ đạo bởi Ziegler cùng với các vũ công khác và hoà quyện nhiều yếu tố của nghệ thuật biểu diễn khác. Trong khoảng thời gian này, Sia đội một mái tóc giả che mặt để bảo toàn sự riêng tư của mình.[2]

Trong số những giải thưởng và thành tựu của Sia, phải kể đến nhiều giải ARIA và một giải Video âm nhạc của MTV.[3] Album phòng thu thứ tám, là album mang chủ đề Giáng sinh đầu tiên của cô và là album đầu tiên của cô với hãng đĩa Atlantic Records, mang tên Everyday Is Christmas được phát hành vào năm 2017 và bao gồm duy nhất một đĩa đơn là "Santa's Coming for Us". Album sau này được tái phát hành vào năm 2018 với ba bài hát mới được bổ sung.

Cuộc đời và sự nghiệp

[sửa | sửa mã nguồn]

1975–1997: Cuộc sống và sự nghiệp đầu đời

[sửa | sửa mã nguồn]

Sia Kate Isobelle Furler sinh ngày 18 tháng 12 năm 1975 tại thành phố Adelaide, Nam Úc. Cha của cô, Phil Colson, là một nhạc sĩ và mẹ cô, Loene Furler, là một giảng viên về nghệ thuật.[4] Sia có bác ruột là Kevin Colson, nam ca sĩ kiêm diễn viên người Úc.[5] Nữ ca sĩ từng kể rằng khi cô còn nhỏ, cô thường bắt chước phong cách biểu diễn của các nghệ sĩ gồm Aretha Franklin, Stevie WonderSting và miêu tả họ là những nguồn cảm hứng đầu tiên của cô.[6] Lên trung học, cô theo học trường Trung học Adelaide.[4] Vào giữa những năm 1990, Sia bắt đầu theo đuổi sự nghiệp ca hát của mình với tư cách là một ca sĩ trong ban nhạc acid jazz địa phương mang tên Crisp.[4] Sia sau đó tiếp tục hợp tác với ban nhạc và đã góp giọng trong hai nhạc phẩm của ban nhạc là album Word and the Deal (1995)[7]đĩa mở rộng (EP) Delirium (1997).[8] Năm 1997, Crisp tan rã,[9] Sia cho phát hành album phòng thu đầu tay của mình có tựa đề OnlySee thông qua hãng đĩa Flavoured Records tại Úc vào ngày 23 tháng 12.[10] Theo thống kê, album đã tiêu thụ được hơn 1.200 bản.[11][12] Không giống với các album sau này của cô, Sia sử dụng nghệ danh "Sia Furler" để bày bán album trên thị trường (sau này cô rút ngắn lại nghệ danh thành "Sia"). Album được sản xuất bởi Jesse Flavell.[13]

1997–2006: Tham gia Zero 7, Healing Is DifficultColour the Small One

[sửa | sửa mã nguồn]
Sia biểu diễn cùng với ban nhạc Zero 7 trong một buổi hoà nhạc vào năm 2006

Sau khi ban nhạc Crisp tan rã vào năm 1997, Sia chuyển đến thành phố London sinh sống,[9] sau trở thành ca sĩ hát bè cho ban nhạc người Anh Jamiroquai.[14] Ngoài ra, nữ ca sĩ còn là ca sĩ hát chính cho ban nhạc người Anh khác có tên Zero 7 khi cô góp giọng trong ba album phòng thu đầu tiên của nhóm và đi lưu diễn cùng họ.[15] Đáng chú ý hơn cả, trong album phòng thu ra mắt năm 2011 của Zero 7 mang tên Simple Things, Sia góp giọng cho hai ca khúc "Destiny" và "Distractions".[16] Đĩa đơn "Destiny" từng đạt vị trí cao nhất trên bảng xếp hạng UK Singles Chart là hạng 30.[17] Năm 2004, cô tiếp tục góp giọng cho hai bài hát "Somersault" và "Speed Dial: No. 2" (trích từ album When It Falls).[18] Năm 2006, Sia một lần nữa hợp tác với Zero 7 trong album thứ ba của nhóm The Garden và từ đó nữ ca sĩ được công nhận là ca sĩ hát chính "không chính thức" của Zero 7.[19][20]

Năm 2000, Sia ký hợp đồng thu âm với Dance Pool, hãng đĩa con của Sony Music, và phát hành đĩa đơn đầu tay của cô mang tên "Taken for Granted", từng đạt đến vị trí thứ 10 trên UK Singles Chart.[21] Một năm sau, Sia phát hành album phòng thu thứ hai của cô Healing Is Difficult, được miêu tả là một sự hoà trộn giữa các thể loại nhạc jazzsoul và chủ yếu nói về việc Sia đang phải vượt qua mất mát tổn thương khi mối tình đầu của nữ ca sĩ đã qua đời.[9][22]

Tham khảo

[sửa | sửa mã nguồn]
  1. ^ “Singer-songwriter Sia snags first No. 1 on U.S. Billboard chart”. Reuters. 16 tháng 7 năm 2014. Bản gốc lưu trữ ngày 27 tháng 9 năm 2017. Truy cập ngày 24 tháng 11 năm 2017. Đã bỏ qua tham số không rõ |deadurl= (gợi ý |url-status=) (trợ giúp)
  2. ^ Lỗi chú thích: Thẻ <ref> sai; không có nội dung trong thẻ ref có tên age
  3. ^ “Sia, Iggy Azalea each score four Grammy nominations including record of the Year”. Australian Broadcasting Corporation. 8 tháng 12 năm 2014. Bản gốc lưu trữ ngày 8 tháng 8 năm 2015. Truy cập ngày 6 tháng 8 năm 2019. Đã bỏ qua tham số không rõ |deadurl= (gợi ý |url-status=) (trợ giúp)
  4. ^ a b c Harry, Michael. “Sia Sensation” (PDF). The Adelaide Advertiser: 24–26. Bản gốc (PDF) lưu trữ ngày 5 tháng 11 năm 2011. Truy cập ngày 24 tháng 11 năm 2017.
  5. ^ Craven, Peter (26 tháng 9 năm 2014). “Kevin Colson confesses all of his career in starry firmament”. The Sydney Morning Herald. Truy cập ngày 24 tháng 11 năm 2017.
  6. ^ Cohen, Alex (15 tháng 2 năm 2007). “Sia Learns to Sound Like Herself” (Phỏng vấn). NPR Music. Bản gốc lưu trữ ngày 24 tháng 11 năm 2017.
  7. ^ “Word and the deal / Crisp. [sound recording]”. Thư viện Quốc gia Úc. Bản gốc lưu trữ ngày 14 tháng 1 năm 2015. Đã bỏ qua tham số không rõ |deadurl= (gợi ý |url-status=) (trợ giúp)
  8. ^ “Delerium / Crisp. [sound recording]”. Thư viện Quốc gia Úc. Bản gốc lưu trữ ngày 15 tháng 1 năm 2015. Đã bỏ qua tham số không rõ |deadurl= (gợi ý |url-status=) (trợ giúp)
  9. ^ a b c Murfett, Andrew (18 tháng 6 năm 2010). “Sia Furler: Fame does not become her”. The Sydney Morning Herald. Truy cập ngày 24 tháng 11 năm 2017.
  10. ^ “Onlysee / Sia Furler. [sound recording]”. Thư viện Quốc gia Úc. Bản gốc lưu trữ ngày 25 tháng 12 năm 2013. Truy cập ngày 24 tháng 11 năm 2017.
  11. ^ Leon (1 tháng 3 năm 2015). “Sia's first album onlysee”. Boy Princess. Bản gốc lưu trữ ngày 6 tháng 1 năm 2016. Truy cập ngày 24 tháng 11 năm 2017. Đã bỏ qua tham số không rõ |deadurl= (gợi ý |url-status=) (trợ giúp)
  12. ^ “Sia”. Discogs. Truy cập ngày 24 tháng 11 năm 2017.
  13. ^ “Onlysee (sound recording) / Sia Furler”. Thư viện Quốc gia Úc. Bản gốc lưu trữ ngày 8 tháng 1 năm 2018. Truy cập ngày 24 tháng 11 năm 2017. Đã bỏ qua tham số không rõ |deadurl= (gợi ý |url-status=) (trợ giúp)
  14. ^ Leahey, Andrew. “Sia Biography”. AllMusic. Bản gốc lưu trữ ngày 14 tháng 2 năm 2015. Truy cập ngày 22 tháng 1 năm 2018. Đã bỏ qua tham số không rõ |deadurl= (gợi ý |url-status=) (trợ giúp)
  15. ^ Lỗi chú thích: Thẻ <ref> sai; không có nội dung trong thẻ ref có tên Verrico
  16. ^ “Simple Things – Zero 7”. AllMusic. Truy cập ngày 22 tháng 1 năm 2018.
  17. ^ “Sia: Artist”. Official Charts Company. Truy cập ngày 22 tháng 1 năm 2018.
  18. ^ Bush, John. “When It Falls – Zero 7”. AllMusic. Truy cập ngày 22 tháng 11 năm 2018.
  19. ^ Brown, Marisa. “The Garden – Zero 7”. AllMusic. Truy cập ngày 22 tháng 1 năm 2018.
  20. ^ Mason, Kerri (3 tháng 10 năm 2009). “Albums: Zero 7 – Yeah Ghost”. Billboard. 121 (39): 56. Truy cập ngày 22 tháng 1 năm 2018.
  21. ^ Lỗi chú thích: Thẻ <ref> sai; không có nội dung trong thẻ ref có tên AllMusic
  22. ^ O'Brien, Jon. “Healing Is Difficult – Sia”. AllMusic. Truy cập ngày 22 tháng 1 năm 2018.