Bước tới nội dung

TV Chosun

Bách khoa toàn thư mở Wikipedia
TV Chosun
Tên bản ngữ
Hangul(주)TV
HanjaTV
Romaja quốc ngữ(Ju) Joseon Bangsong
McCune–Reischauer(Chu) Chosŏn Pangsong
Loại hình
Tư nhân
Thành lập28 tháng 1 năm 2011; 13 năm trước (2011-01-28)Seoul, Hàn Quốc
Trụ sở chínhSejongno, Jung-gu, Seoul, Hàn Quốc
Thành viên chủ chốt
Doanh thu153.172.893.532 won (2018)
-1.036.465.441 won (2018)
3.276.761.531 won (2018)
Tổng tài sản270.716.352.671 won (2018)
Tổng vốn
chủ sở hữu
310 tỷ won (2018)
Chủ sở hữu
Thành viên289 (2018)
Công ty con
Websitewww.tvchosun.com

Công ty phát thanh truyền hình Chosun (tiếng Hàn Quốc: 주식회사조선방송; Hanja: 株式會社朝鮮放送; Jusikhoesa Joseon Bangsong; còn gọi là "Company Korea Broadcasting"), hay TV Chosun, là một công ty phát thanh và truyền hình cáp phổ biến toàn quốc Hàn Quốc, thuộc sở hữu Chosun Ilbo. Nó bắt đầu được phát sóng vào 1 tháng 12 năm 2011.[1]

TV Chosun là một trong 4 kênh truyền hình cáp phát sóng toàn quốc Hàn Quốc cùng với JTBC của JoongAng Ilbo, Channel A của Dong-A Ilbo, và MBN của Maeil Kyungje vào năm 2011.[2][3][4][5][6] Bốn kênh mới được bổ sung trong mạng lưới TV miễn phí như KBS, MBC, SBS, và nhiều kênh nhỏ khác được phát hành sau khi bãi bỏ quy định vào năm 1990.

Lịch sử

[sửa | sửa mã nguồn]
  • 22 tháng 7 năm 2009 - Sửa đổi luật truyền thông thông qua quốc hội Hàn Quốc để bãi bỏ kiểm soát thị trường truyền thông Hàn Quốc.
  • 31 tháng 12 năm 2010 - JTBC, TV Chosun, MBN, và Channel A được chọn như Kênh truyền hình cáp phổ biến.
  • 1 tháng 12 năm 2011 – TV Chosun bắt đầu phát sóng.

Tham khảo

[sửa | sửa mã nguồn]
  1. ^ Shin Hae-in (ngày 30 tháng 11 năm 2011). “New cable channels go on air”. The Korea Herald. Bản gốc lưu trữ ngày 3 tháng 3 năm 2016. Truy cập ngày 2 tháng 6 năm 2013.
  2. ^ Kim Tong-hyung (ngày 12 tháng 12 năm 2011). “What else can new channels do to boost ratings?”. The Korea Times. Truy cập ngày 2 tháng 6 năm 2013.
  3. ^ Noh Hyun-gi (ngày 4 tháng 1 năm 2012). “Four new TV channels face uncertain futures”. The Korea Times. Truy cập ngày 2 tháng 6 năm 2013.
  4. ^ Yoon Ja-young (ngày 20 tháng 1 năm 2012). “Low ratings weigh on new channels”. The Korea Times. Truy cập ngày 2 tháng 6 năm 2013.
  5. ^ Kim Tong-hyung (ngày 6 tháng 6 năm 2012). “New channels remain 'anonymous'. The Korea Times. Truy cập ngày 2 tháng 6 năm 2013.
  6. ^ Bae Ji-sook (ngày 29 tháng 11 năm 2012). 'New TV channels are niche, not gold mine'. The Korea Herald. Bản gốc lưu trữ ngày 27 tháng 10 năm 2020. Truy cập ngày 2 tháng 6 năm 2013.

Liên kết

[sửa | sửa mã nguồn]