Bước tới nội dung

Tần Điệu Vũ hậu

Bách khoa toàn thư mở Wikipedia
Tần Điệu Vũ hậu
秦悼武后
Tần Điệu Vũ Vương hậu
Vương hậu nước Tần
Tại vị311 TCN - 307 TCN
Tiền nhiệmTần Huệ Văn hậu
Kế nhiệmDiệp Dương hậu
Thông tin chung
Sinh
nước Ngụy
Phu quânTần Vũ vương
Tên đầy đủ
Ngụy thị (魏氏)
Tước hiệuĐiệu Vũ hậu (悼武后)
Vương thấtnước Tần (Hôn phối)
nước Ngụy (Thế tộc)

Tần Điệu Vũ hậu (chữ Hán: 秦悼武后) là Vương hậu của nước Tần thời Chiến Quốc, vợ của Tần Vũ vương, vị Vương thứ hai của nước Tần.

Tiểu sử

[sửa | sửa mã nguồn]

Điệu Vũ hậu họ Ngụy, nguyên là Công chúa của nước Ngụy. Rất có thể bà là cháu gọi Huệ Văn hậu, chính thất của Tần Huệ Văn vương bằng cô[1]. Sử sách không ghi lại năm bà đến Tần, cũng như khi nào bà thành hôn với Tần Vũ vương. Chỉ biết năm 311 TCN, Tần Vũ vương lên ngôi, bà được lập làm Vương hậu.

Năm 307 TCN, Vũ vương đánh thắng quân Hàn, sai Sư Lý Tật đem quân vào kinh thành Lạc Dương của nhà Chu. Chu Noản Vương đích thân ra tiếp kiến, Vũ Vương nhìn thấy chín đỉnh của nhà Chu, quyết mang đỉnh chữ Ung về. Trong lúc cùng lực sĩ Mạnh Thuyết nâng đỉnh, Vũ Vương bị đỉnh rơi xuống trúng chân, gãy xương bánh chè, không lâu sau qua đời[2].

Điệu Vũ hậu không con, thiếp thất của Vũ vương cũng không sinh con trai kế vị. Các anh em của Vũ vương công khai tranh giành Vương vị. Đại phu Ngụy Nhiễm, em cùng mẹ khác cha với Mị Bát tử, thực quyền chưởng ác triều chính, ủng hộ lập cháu mình là Doanh Tắc, vốn đang là con tinnước Yên kế thừa Vương vị. Cùng lúc đó Triệu Vũ Linh vương can thiệp vào nước Tần, hợp sức với Ngụy Nhiễm đưa Công tử Tắc lên ngôi[2], tức Tần Chiêu Tương vương. Mị Bát tử nhờ vậy được tôn làm Tuyên thái hậu.

Năm Chu Noãn vương thứ 10 (305 TCN), Công tử Doanh Tráng, con trai lớn nhất còn sống của Tần Huệ Văn vương, đã liên hợp đại thần nổi loạn, song thất bại trước Tuyên thái hậu và Ngụy Nhiễm. Huệ Văn hậu, Công tử Ung và Công tử Tráng đều bị xử tử[3][4][5][6].

Không có thông tin nào ghi Điệu Vũ hậu bị xử tử chung với Huệ Văn hậu, tuy nhiên bà là chị dâu của Tần vương mới nên không được tôn Thái hậu. Một số sử gia cho rằng bà cùng Cam Mâu bị Sư Lý Tật trục xuất về Ngụy, tiếp tục sinh sống ở nơi bà sinh ra.

Chú thích

[sửa | sửa mã nguồn]
  1. ^ Sử ký, quyển 15, phần "Lục quốc niên biểu" chép:(秦惠文王)四年,魏夫人来。. Dịch: "[Tần Huệ Văn vương] năm thứ tự, Ngụy phu nhân đến"
  2. ^ a b Sử ký, Tần bản kỉ
  3. ^ Sử ký, quyển 72, phần "Nhương hầu liệt truyện" ghi: "Vũ vương chết, chư đệ tranh lập, riêng Ngụy Nhai [tức Ngụy Nhiễm] đủ khả năng lập [Tần] Chiêu vương. Chiêu vương tức vị, lập Nhai làm Tướng quân, bảo vệ Hàm Dương, dẹp loạn Quý quân [tức công tử Tráng]".
  4. ^ Sách "Sử ký tác ẩn", phần "Nhương hầu liệt truyện" chép: "Quý quân tức công tử Tráng, tiếm lập ngôi vị xưng hiệu là Quý quân. Nhương hầu có thực lực, lập Chiêu vương, được phòng làm Tướng quân, bảo vệ Hàm Dương, giết Quý quân cùng với Huệ Văn [hậu]".
  5. ^ Sách "Cổ bản trúc thư kỷ niên", phần "Ngụy kỷ" chép: "Tần nội loạn, [Ngụy Nhiễm] giết Thái hậu cùng với công tử Ung, công tử Tráng".
  6. ^ Sử ký, Tần bản kỷ đệ ngũ: "Thứ trưởng Tráng cùng đại thần và các công tử nổi loạn, bị giết, làm Huệ Văn hậu cũng không thoát khỏi.".