Bước tới nội dung

HIV/AIDS

Đây là một bài viết cơ bản. Nhấn vào đây để biết thêm thông tin.
Bách khoa toàn thư mở Wikipedia
(Đổi hướng từ SIĐA)
HIV/AIDS
Tên khácBệnh HIV, SIDA
A red ribbon in the shape of a bow
Biểu tượng Ruy băng đỏ được dùng đại diện cho tinh thần đoàn kết và khoan dung và che chở, giúp đỡ với người nhiễm HIV/AIDS[1]
Khoa/NgànhBệnh truyền nhiễm
Triệu chứngSớm: như cảm cúm[2]
Muộn: Hạch bạch huyết sưng lớn, phát sốt, giảm cân[2]
Biến chứngNhiễm trùng cơ hội, u[2]
Diễn biếndài hạn[2]
Nguyên nhânHIV[2]
Yếu tố nguy cơTiếp xúc qua máu, sữa mẹ, tình dục[2]
Phương pháp chẩn đoánXét nghiệm máu[2]
Phòng ngừaTình dục an toàn, cắt bao quy đầu[2], xét nghiệm trước khi truyền máu, không dùng chung kim tiêm cho 2 người trở lên
Điều trịThuốc kháng virus[2]
Tiên lượngTuổi thọ gần bình thường với điều trị[3][4]
Dịch tễ1.8 triệu trường hợp mới (2016)[5]
36.7 triệu người sống với HIV (2016)[5]
Tử vong1.0 triệu (riêng trong năm 2016)[5]
Hội chứng suy giảm miễn dịch (AIDS)
bệnh HIV, nhiễm HIV[6][7][8]
Biểu tượng Ruy băng đỏ được dùng đại diện cho tinh thần đoàn kết và khoan dung với người nhiễm HIV/AIDS
Chuyên khoabệnh truyền nhiễm
ICD-10B24
ICD-9-CM042
DiseasesDB5938
MedlinePlus000594
eMedicineemerg/253
Patient UKHIV/AIDS
MeSHD000163

Hội chứng nhiễm virus gây suy giảm miễn dịch ở người (viết tắt HIV/AIDS); tiếng Anh: human immunodeficiency virus infection / acquired immunodeficiency syndrome; hoặc SIDA theo tiếng Pháp Syndrome d'immunodéficience acquise), còn gọi là bệnh liệt kháng (tê liệt khả năng đề kháng), là một dạng bệnh tấn công vào hệ miễn dịch, gây ra do bị nhiễm virus gây suy giảm miễn dịch ở người (HIV).[9][10][11]

HIV lây truyền chủ yếu qua quan hệ tình dục không an toàn (bao gồm cả quan hệ tình dục qua đường hậu môn và thậm chí bằng miệng), qua việc truyền máu hoặc dùng chung kim tiêm với người nhiễm bệnh (tuy nhiên việc bị muỗi đốt không làm lây HIV), và từ mẹ sang con: trong khi mang thai, khi sinh (lây truyền chu sinh), hoặc khi cho con bú.[12] Một số chất dịch của cơ thể như nước bọtnước mắt không lây truyền HIV.[13]

HIV truyền từ các loài linh trưởng khác sang con người ở tây-trung Phi vào đầu đến giữa thế kỉ 20.[14] AIDS được công nhận đầu tiên bởi Trung tâm kiểm soát và phòng ngừa dịch bệnh Hoa Kỳ vào năm 1981 và nguyên nhân của nó—nhiễm HIV—được xác định vào đầu thập niên này.[15] Nhiễm HIV ở người được Tổ chức Y tế Thế giới (WHO) xem như là đại dịch. Năm 2009, toàn thế giới có 1,8 triệu người mắc bệnh AIDS, đã giảm so với mức đỉnh là 2,1 triệu người trong năm 2004.[16] Khoảng 260.000 trẻ em chết vì AIDS trong năm 2009. Ước tính vẫn có khoảng 2,6 triệu người mới bị nhiễm HIV trong năm 2009.[16]

Giai đoạn đầu khi vừa nhiễm virus, người bệnh thường có những triệu chứng giống bệnh cúm trong một thời gian ngắn. Sau đó, bệnh nhân không có dấu hiệu gì trong một thời gian dài. Khi bệnh tiến triển, nó gây ảnh hưởng ngày càng nhiều đến hệ miễn dịch, làm cho bệnh nhân dễ mắc phải các nhiễm trùng, như các loại nhiễm trùng cơ hội hoặc các khối u, là những bệnh mà người có hệ miễn dịch hoạt động bình thường khó có thể mắc phải. Hầu hết những người nhiễm HIV-1 nếu không được chữa trị sẽ tiến triển sang giai đoạn AIDS.[17] Người bệnh thường chết do nhiễm trùng cơ hội hoặc do các bệnh ác tính liên quan đến sự giảm sút của hệ thống miễn dịch.[18] HIV tiến triển sang AIDS theo một tỷ lệ biến thiên phụ thuộc vào sự tác động của các virus, cơ thể vật chủ, và yếu tố môi trường; hầu hết sẽ chuyển sang giai đoạn AIDS trong vòng 10 năm sau khi nhiễm HIV: một số trường hợp chuyển rất sớm, một số lại lâu hơn.[19][20]

Hội chứng suy giảm miễn dịch mắc phải

[sửa | sửa mã nguồn]
Một tế bào T bị nhiễm HIV (màu vàng xanh), qua kính hiển vi điện tử quét

Hội chứng: nhóm các biểu hiện (triệu chứng) như: sốt, tiêu chảy, sụt cân, nổi hạch... do một căn bệnh nào đó gây ra.

Suy giảm miễn dịch: Hệ miễn dịch là hệ thống phòng ngự bảo vệ cơ thể chống lại các mầm bệnh từ ngoài xâm nhập vào cơ thể, suy giảm miễn dịch là tình trạng hệ miễn dịch trở nên yếu, giảm hoặc không có khả năng chống lại sự tấn công của các tác nhân gây bệnh.

Mắc phải: Không do di truyền mà do bị lây nhiễm trong cuộc sống. Tổ chức Y tế Thế giới ước tính rằng đến cuối năm 2009 sẽ có 37,2 triệu người lớn và 2,2 triệu trẻ em sống với HIV. Trong năm 2004, 4,9 triệu người đã bị nhiễm và 3,1 triệu chết vì AIDS. Từ năm 1981, AIDS đã giết 23,1 triệu người trong tổng cộng 79,9 triệu trường hợp. Ở Châu Phi, tuổi thọ đã giảm trong các thập kỉ vừa qua chỉ vì tử vong do AIDS và ung thư Kaposi, một khối u xuất hiện ở bệnh nhân AIDS, hiện nay là khối u phổ biến nhất được báo cáo ở các nước hạ Sahara.

AIDS được phát hiện lần đầu tiên ở những người đàn ông đồng tính luyến ái và những người tiêm ma tuý vào tĩnh mạch vào thập niên 1980. Sang thập niên 1990 hội chứng này đã trở thành một dịch bệnh toàn cầu và vào năm 2004 58 phần trăm người bị AIDS là phụ nữ. Mặc dù những người đồng tính luyến ái nam và những người gốc Phi tiếp tục hứng chịu tỉ lệ AIDS theo đầu người cao nhất, phần lớn nạn nhân hiện nay là những người dị tính luyến ái nam và nữ, và trẻ em, ở các nước đang phát triển.

Dấu hiệu và triệu chứng

[sửa | sửa mã nguồn]
Đồ thị tổng quát về mối quan hệ giữa số lượng các bản sao chép của HIV (tải lượng virus) và số lượng tế bào T-CD4+ trung bình các ca nhiễm HIV không được điều trị, tất nhiên đối với từng cá nhân cụ thể có thể khác nhau đáng kể.
  số lượng tế bào T-CD4+ (tế bào/µL)
  Bản sao RNA của HIV mỗi mL huyết tương

Nhiễm HIV-1 dẫn đến sự suy giảm cấp tiến số lượng tế bào T-CD4+ và tăng tải lượng virus cũng như nồng độ HIV trong máu. Có thể xác định giai đoạn nhiễm bệnh bằng cách đo số lượng tế bào T-CD4+ và tải lượng virus của bệnh nhân.

Nhiễm HIV có 3 giai đoạn: giai đoạn nhiễm trùng cấp tính (còn gọi là nhiễm trùng tiên phát), giai đoạn tiềm ẩn và giai đoạn AIDS. Nhiễm trùng cấp tính kéo dài trong vài tuần và có thể bao gồm các triệu chứng như nổi hạch (sưng hạch bạch huyết), sốt, viêm họng, phát ban, đau cơ, khó chịu, lở loét miệngthực quản. Giai đoạn tiềm ẩn không có triệu chứng và có thể kéo dài từ hai tuần đến hai mươi năm hoặc hơn, tùy thuộc vào từng cá nhân. Giai đoạn AIDS là giai đoạn cuối của nhiễm HIV, được xác định bởi số lượng tế bào T-CD4+ thấp (ít hơn 200 trong một microlit), những bệnh nhiễm trùng cơ hội, ung thư và các tình trạng khác.

Một tỷ lệ nhỏ các cá thể bị nhiễm HIV-1 vẫn giữ số lượng tế bào T-CD4+ ở mức cao mà không cần liệu pháp kháng ritrovirus. Tuy nhiên, hầu hết vẫn có thể phát hiện thông qua tải lượng virus và cuối cùng cũng sẽ tiến triển thành AIDS, mặc dù chậm hơn so với những người khác. Những người này được phân loại là những HIV controller hoặc long-term nonprogressor (LTNP). Những bệnh nhân có thể duy trì số lượng tế bào T-CD4+ đồng thời có tải lượng virus thấp hoặc không thể phát hiện được trên lâm sàng mà không cần điều trị kháng retrovirus được gọi là những elite controller hoặc elite suppressor (ES).[21][22]

Giai đoạn cấp tính

[sửa | sửa mã nguồn]
Những triệu chứng chính của giai đoạn nhiễm HIV cấp tính.

Nhiễm HIV thường xảy ra bằng cách đưa các chất dịch cơ thể từ người bị nhiễm bệnh vào cơ thể của một người không bị nhiễm bệnh. Giai đoạn virus nhân lên một cách nhanh chóng xảy ra ngay sau đó, dẫn đến có nhiều virus trong máu ngoại biên. Ở giai đoạn này, mức HIV có thể lên đến vài triệu hạt virus trong mỗi ml máu.[23]

Phản ứng này đi kèm với việc lưu lượng tế bào T-CD4+ bị giảm đáng kể. Trong tất cả các bệnh nhân, mức virus này thực tế là do sự hoạt hóa của các tế bào T-CD8+ đã giết chết những tế bào bị nhiễm HIV, sau đó sản sinh các kháng thể hoặc biến đổi huyết thanh. Phản ứng của tế bào T-CD8+ được cho là quan trọng trong việc kiểm soát mức virus từ mức cao trở thành suy giảm dần, và phục hồi số lượng tế bào T-CD4+. Phản ứng của tế bào T-CD8+ tốt sẽ làm tiến triển bệnh chậm hơn và việc dự đoán bệnh tốt hơn, mặc dù nó không thể loại trừ được virus.[24]

Trong thời gian này (thường là 2-4 tuần sau khi phơi nhiễm), hầu hết các bệnh nhân (80-90%) sẽ mắc bệnh cúm hoặc bệnh gần giống như bệnh bạch cầu đơn nhân, gọi chung là nhiễm HIV cấp tính, có thể với các triệu chứng phổ biến bao gồm sốt, nổi hạch, viêm họng, phát ban, đau cơ, khó chịu, lở miệng và thực quản, và ít phổ biến hơn còn có các triệu chứng như nhức đầu, buồn nônnôn, sưng gan/lá lách, giảm cân, bệnh tưa miệng, và các triệu chứng thần kinh. Từng cá thể bị nhiễm bệnh có thể có 1 hoặc vài triệu chứng này, cũng có trường hợp không xuất hiện bất cứ triệu chứng nào. Thời gian của các triệu chứng là khác nhau, trung bình kéo dài 28 ngày và ngắn nhất thường là một tuần.[25]

Do tính chất không rõ ràng của những triệu chứng này, cho nên bệnh nhân thường không nhận ra việc bị nhiễm HIV. Ngay cả khi bệnh nhân đến khám bác sĩ hay bệnh viện, họ thường sẽ được chẩn đoán nhầm là bị một trong các bệnh nhiễm khuẩn thông thường với các triệu chứng tương tự. Hệ quả là, những triệu chứng tiên phát này không được sử dụng để chẩn đoán nhiễm HIV, vì không phải tất cả các trường hợp nhiễm HIV đều xuất hiện những triệu chứng này và phần lớn lại giống triệu chứng của các bệnh thông thường khác. Tuy nhiên, nhận biết hội chứng là việc rất quan trọng, bởi vì bệnh nhân có thể dễ lây bệnh cho nhiều người trong giai đoạn này.[26]

Giai đoạn mãn tính

[sửa | sửa mã nguồn]

Sự bảo vệ mạnh mẽ của hệ miễn dịch sẽ làm giảm số lượng của các hạt virus trong máu, chuyển sang giai đoạn nhiễm HIV mãn tính. Giai đoạn này có thể kéo dài từ 2 tuần cho đến 20 năm tùy theo từng trường hợp. Trong suốt giai đoạn mãn tính, HIV hoạt động trong các hạch bạch huyết, làm cho các hạch này thường bị sưng do phản ứng với một số lượng lớn virus bị kẹt trong mạng lưới các tế bào tua hình nang (FDC).[27] Các mô giàu tế bào CD4+ xung quanh cũng có thể bị nhiễm bệnh, các hạt virus tích tụ cả trong các tế bào bị nhiễm và ở dạng virus tự do. Trong giai đoạn này bệnh nhân vẫn có khả năng lây bệnh, tế bào T CD4+ CD45RO+ mang theo tải lượng virus nhiều nhất[28], và việc bắt đầu sớm điều trị kháng retrovirus sẽ cải thiện đáng kể thời gian sống.[29]

Giai đoạn cuối (AIDS)

[sửa | sửa mã nguồn]

Khi số lượng các tế bào CD4+ giảm xuống dưới mức 200 tế bào trên 1uL máu, sự miễn dịch qua trung gian tế bào gần như đã bị vô hiệu. Khi đó, người bệnh sẽ xuất hiện nhiễm trùng do một loạt các vi sinh vật cơ hội gây ra. Các triệu chứng đầu tiên thường bao gồm giảm cân vừa phải và không giải thích được, nhiễm trùng đường hô hấp tái phát (như viêm xoang, viêm phế quản, viêm tai giữa, viêm họng), viêm tuyến tiền liệt, phát ban da, và loét miệng.

Nhiễm trùng cơ hội và các khối u phổ biến ở người bình thường sẽ bị tế bào miễn dịch trung gian CD4+ khống chế sau đó chúng mới ảnh hưởng đến người bệnh. Đặc trưng của mất sức đề kháng là sẽ nhanh chóng bị nhiễm vi nấm Candida species gây nên bệnh nấm miệng (còn gọi là đẹn trắng hay tưa miệng) hoặc nhiễm vi khuẩn hiếu khí Mycobacterium tuberculosis (MTB) gây bệnh lao. Sau đó, các virus herpes tiềm ẩn sẽ được kích hoạt gây tái phát ngày càng nặng hơn các tổn thương đau đớn phun trào do herpes simplex, bệnh zona, ung thư hạch bạch huyết do virus Epstein-Barr và ung thư Kaposi's sarcoma.

Viêm phổi do nấm Pneumocystis jirovecii cũng phổ biến và thường gây tử vong. Trong giai đoạn cuối của AIDS, đáng chú ý là những bệnh nhiễm cytomegalovirus (một loại virus herpes) hoặc nhiễm Mycobacterium avium complex. Không phải tất cả các bệnh nhân AIDS đều bị tất cả các bệnh nhiễm trùng hoặc các khối u trên, nhưng có các loại khối u và các bệnh nhiễm trùng khác ít nổi bật hơn nhưng vẫn đáng kể.

Lây truyền

[sửa | sửa mã nguồn]
Trung bình mỗi hành động có nguy cơ nhiễm HIV
bằng cách tiếp xúc với nguồn bị nhiễm
Đường tiếp xúc Phần trăm lây nhiễm
Truyền máu 90%[30]
Sinh sản (mẹ sang con) 25%[31][cần giải thích]
Dùng chung kim chích ma túy 0.67%[32]
Kim châm qua da 0.30%[33]
Người nhận trong giao hợp qua đường hậu môn* 0.04–3.0%[34]
Người cho trong giao hợp qua đường hậu môn* 0.03%[35]
Người nhận (nữ) trong giao hợp âm đạo - dương vật* 0.05–0.30%[34][36]
Người cho (nam) trong giao hợp âm đạo - dương vật* 0.01–0.38%[34][36]
Dùng miệng để quan hệ tình dục 0–0.04%[34]
Để người khác quan hệ tình dục bằng miệng với mình 0–0.005%[37]
* không sử dụng bao cao su
§ nguồn đề cập đến giao hợp bằng miệng
được thực hiện với người đàn ông

Bệnh nhân AIDS và người nhiễm HIV là nguồn truyền nhiễm duy nhất của virus HIV. Không có ổ chứa nhiễm trùngđộng vật. Tất cả mọi người điều có khả năng cảm nhiễm HIV, không phân biệt sắc tộc, tuổi tác, sức khoẻ...

HIV được phân lập từ máu, tinh dịch, dịch tiết âm đạo, nước bọt, nước mắt, sữa mẹ, nước tiểu và các dịch khác của cơ thể, nhưng nhiều nghiên cứu về dịch tể học cho thấy rằng chỉ có máu, tinh dịch và dịch tiết âm đạo đóng vai trò quan trọng trong việc lây truyền HIV. Do đó chỉ có 3 phương thức hay đường lây truyền chính của HIV, trong đó HIV-2 có xác suất truyền qua đường mẹ sang con và quan hệ tình dục ít hơn HIV-1.

Tình dục

[sửa | sửa mã nguồn]
Tình trạng nhiễm HIV trong năm 2007.

Phần lớn HIV lây qua đường quan hệ tình dục không an toàn. Ước tính tỷ lệ nhiễm HIV/AIDS trên thế giới qua đường tình dục chiếm khoảng 75%. Việc chủ quan đối với HIV đóng một vai trò quan trọng trong nguy cơ bị lây bệnh. Lây truyền qua đường tình dục có thể xảy ra khi chất tiết sinh dục của một bạn tình có chứa virus, tiếp xúc với niêm mạc sinh dục, miệng, hoặc trực tràng của người còn lại. Nguy cơ lây nhiễm qua một lần giao hợp với người nhiễm HIV là 0,1% đến 1%. Ở các quốc gia có thu nhập cao, nguy cơ nữ lây truyền cho nam là 0,04% cho mỗi lần quan hệ và nam truyền cho nữ là 0,08%. Vì những lý do khác nhau, nguy cơ này cao hơn từ 4 đến 10 lần ở các nước có thu nhập thấp. Người nhận trong giao hợp qua đường hậu môn có nguy cơ bị lây nhiễm cao hơn nhiều, 1,7% cho mỗi lần quan hệ.[38] Người nào có nhiều bạn tình, đồng thời quan hệ tình dục không an toàn thì càng có nguy cơ lây nhiễm HIV. Mắc các bệnh lây truyền qua đường tình dục như giang mai, lậu... đều làm tăng nguy cơ lây nhiễm HIV lên gấp 20 lần.[cần dẫn nguồn]

Các nghiên cứu năm 1999 về việc sử dụng bao cao su cho thấy rằng nếu sử dụng bao cao su đúng cách sẽ làm giảm nguy cơ lây truyền qua đường tình dục của HIV khoảng 85%.[39] Tuy nhiên, chất diệt tinh trùng thực sự có thể làm tăng tỷ lệ lây truyền.[40][41][42]

Những thử nghiệm đối chứng ngẫu nhiên, trong đó, nam giới chưa cắt bao quy đầu được phân ngẫu nhiên để được giải phẫu cắt bao quy đầu trong điều kiện vô trùng và được tư vấn đã được thực hiện tại Nam Phi,[43] Kenya,[44]Uganda,[45] kết quả cho thấy mức độ lây nhiễm HIV trong đường tình dục nữ truyền cho nam giảm xuống 60%, 53%, và 51%, tương ứng với từng quốc gia. Từ kết quả này, WHO và Ban Thư ký UNAIDS đã triệu tập một nhóm chuyên gia để "khuyến cáo rằng nam giới cắt bao quy đầu được công nhận như là một sự can thiệp bổ sung quan trọng để giảm nguy cơ lây nhiễm HIV trong quan hệ tình dục dị tính luyến ái đối với nam giới".[46] Đối với trường hợp nam có quan hệ tình dục với nam, không có đủ bằng chứng để chứng minh nam giới cắt bao quy đầu sẽ bảo vệ chống lại nhiễm HIV hoặc nhiễm những bệnh lây truyền qua đường tình dục khác.[cần dẫn nguồn]

Các nghiên cứu về lây truyền HIV ở phụ nữ đã cắt bộ phận sinh dục (FGC) đã báo cáo các kết quả khác nhau, nhưng với một số bằng chứng cho rằng việc này làm tăng nguy cơ lây truyền.[47][48][49][50]

Theo báo cáo về các nghiên cứu trong năm 2007 của Cochrane Collaboration, thì các chương trình nhằm mục đích khuyến khích việc tiết chế tình dục trong giới trẻ ở những nước phát triển, đồng thời cũng thực hiện các chiến lược cổ động và giáo dục về tình dục an toàn cho những đối tượng đã có quan hệ tình dục, có thể làm giảm trong ngắn hạn và dài hạn những hành vi có rủi ro lây nhiễm HIV.[51]

Đường máu

[sửa | sửa mã nguồn]

HIV có trong máu toàn phần và các thành phần của máu như hồng cầu, tiểu cầu, huyết tương, các yếu tố đông máu. Do đó HIV có thể được truyền qua máu hay các sản phẩm của máu có nhiễm HIV. Nguy cơ lây truyền qua đường máu có tỷ lệ rất cao, trên 90%. Kể từ năm 1985, sau khi có các xét nghiệm sàng lọc phát hiện kháng thể kháng HIV, nguy cơ lây truyền theo đường máu ở nhiều nước đã giảm đi rõ rệt bởi các mẫu máu nhiễm HIV sẽ bị loại bỏ. Tuy nhiên ngay cả khi xét nghiệm máu cho kết quả âm tính, khả năng lây nhiễm HIV vẫn có thể xảy ra, do máu được lấy ở người mới bị nhiễm HIV, người đó đang ở trong "thời kỳ cửa sổ" của quá trình nhiễm HIV. Nguy cơ này xảy ra nhiều ở những nơi có tỷ lệ nhiễm HIV cao, đặc biệt ở những nơi mà người cho máu chuyên nghiệp cao và họ thường thay đổi địa điểm cho máu.

Nếu vết thương hở tiếp xúc với máu bị nhiễm HIV thì sẽ bị lây truyền. Các đối tượng dễ bị lây nhiễm qua đường máu là những người tiêm chích ma túy, những bệnh nhân mắc bệnh rối loạn đông máu di truyền (bệnh ưa chảy máu), người nhận trong quá trình truyền máu (mặc dù tại hầu hết các nước thì máu khi dùng để truyền cho người bệnh đều đã được xét nghiệm HIV để loại bỏ từ trước) và các sản phẩm máu. Lây truyền HIV qua đường máu cũng là vấn đề lo ngại đối với những người được chăm sóc y tế tại các khu vực có vệ sinh không đạt tiêu chuẩn thông thường trong việc sử dụng các dụng cụ tiêm chích, chẳng hạn như việc tái sử dụng kim tiêm để dùng cho nhiều người ở các nước thế giới thứ ba.

HIV cũng truyền qua các dụng cụ xuyên, chích qua da chưa được tiệt trùng như bơm kim tiêm (tiêm chích ma túy), kim xâu tai, dao cạo râu... khi các dụng cụ đó có dính máu nhiễm HIV.

Lây truyền trong chăm sóc y tế: Nhân viên y tế như y tá, nhân viên phòng thí nghiệm, và các bác sĩ cũng là đối tượng rủi ro cao, mặc dù hiếm xảy ra hơn. Kể từ khi việc lây nhiễm HIV qua đường máu được phát hiện thì các nhân viên y tế cần tránh không tiếp xúc với máu bằng cách sử dụng các biện pháp dự phòng phổ quát. Trong quá trình xăm, xâu khuyên, và rạch da thì cả người thực hiện lẫn người được làm cũng đều dễ bị lây nhiễm HIV qua đường máu nếu các dụng cụ không được tiệt trùng kỹ càng.

HIV được tìm thấy với nồng độ thấp trong nước bọt, nước mắt, và nước tiểu của các cá nhân bị nhiễm bệnh, nhưng không có trường hợp nào bị lây nhiễm bởi những chất tiết này được ghi nhận và nguy cơ tiềm năng lây truyền là không đáng kể.[52] Việc bị muỗi đốt không thể làm lây truyền HIV.[53]

Mẹ lây truyền sang con

[sửa | sửa mã nguồn]

Việc lây truyền virus từ mẹ sang con có thể xảy ra trong tử cung (trong thời kỳ mang thai), trong quá trình chuyển dạ (sinh con), hoặc thông qua việc cho con bú. Trong trường hợp không điều trị, tỷ lệ lây truyền giữa mẹ và con lên đến khoảng 25%. Tuy nhiên, với sự kết hợp điều trị bằng thuốc kháng virusmổ lấy thai thì nguy cơ này có thể được giảm xuống rất thấp, dưới 1%.[31] Sau khi sinh thì có thể ngăn ngừa lây truyền bằng cách tránh hoàn toàn nuôi con bằng sữa mẹ, tuy nhiên, điều này liên quan đáng kể đến các bệnh khác. Cho con bú hoàn toàn bằng sữa mẹ và cung cấp điều trị dự phòng kháng virus mở rộng cho trẻ sơ sinh cũng có hiệu quả trong việc tránh lây truyền.[54] UNAIDS ước tính có 430.000 trẻ em bị nhiễm HIV trên toàn thế giới trong năm 2008 (19% là các ca nhiễm mới), chủ yếu là từ đường mẹ sang con, và thêm 65.000 ca lây nhiễm đã được ngăn chặn thông qua việc cung cấp điều trị dự phòng kháng virus cho phụ nữ nhiễm HIV dương tính.[55]

Sinh lí bệnh

[sửa | sửa mã nguồn]
HIV/AIDS được giải thích theo cách ngắn gọn (có phụ đề)
Chu trình nhân lên của HIV

Sau khi virus xâm nhập vào cơ thể, có một giai đoạn nhân lên nhanh chóng, dẫn đến sự bùng phát của virus trong máu ngoại vi. Trong quá trình lây nhiễm tiên phát, mức độ HIV có thể đạt tới vài triệu hạt vi rút trên một mililít máu.[23] Phản ứng này đi kèm với sự sụt giảm rõ rệt số lượng tế bào CD4+ T trong màu. Nhiễm virut cấp tính gần như liên quan đến việc kích hoạt tế bào CD8+ T, tiêu diệt tế bào nhiễm HIV và sau đó sản xuất kháng thể hoặc chuyển đảo huyết thanh. Phản ứng của tế bào CD8+ T được cho là rất quan trọng trong việc kiểm soát mức độ vi rút, đạt mức cao nhất và sau đó giảm dần, khi số lượng tế bào CD4+ T phục hồi. Đáp ứng tế bào CD8+ T tốt có liên quan đến tiến triển bệnh chậm hơn và tiên lượng tốt hơn, mặc dù nó không loại bỏ được virus.[24]

Cuối cùng, HIV gây ra AIDS bằng cách làm cạn kiệt tế bào T CD4+. Điều này làm suy yếu hệ thống miễn dịch và dẫn đến nhiễm trùng cơ hội. Các tế bào T rất cần thiết cho phản ứng miễn dịch và không có chúng, cơ thể không thể chống lại nhiễm trùng hoặc tiêu diệt các tế bào ung thư. Cơ chế của sự suy giảm tế bào T CD4+ khác nhau trong các giai đoạn cấp tính và mãn tính.[56] Trong giai đoạn cấp tính, ly giải tế bào do HIV và tiêu diệt tế bào bị nhiễm bởi các tế bào T CD8+ chiếm sự suy giảm tế bào T CD4+, mặc dù sự chết rụng tế bào cũng có thể là một yếu tố. Trong giai đoạn mãn tính, hậu quả của việc kích hoạt miễn dịch tổng quát cùng với việc mất dần khả năng của hệ thống miễn dịch để tạo ra các tế bào T mới dường như giải thích cho sự suy giảm chậm số lượng tế bào T CD4+[57]

Mặc dù các triệu chứng suy giảm miễn dịch đặc trưng của AIDS không xuất hiện trong nhiều năm, phần lớn sự mất tế bào T CD4+ xảy ra trong những tuần đầu tiên của nhiễm trùng, đặc biệt là ở niêm mạc ruột, nơi chứa phần lớn các tế bào lympho được tìm thấy trong cơ thể.[58] Lý do làm mất các tế bào T CD4+ niêm mạc là do phần lớn các tế bào T CD4+ niêm mạc chứa thành phần protein CCR5 mà HIV sử dụng như một đồng thụ thể để tiếp cận các tế bào, trong khi chỉ một phần nhỏ các tế bào T CD4+ trong máu tương tự.[59] Một thay đổi di truyền cụ thể làm thay đổi protein CCR5 khi có trong cả hai nhiễm sắc thể ngăn ngừa nhiễm HIV-1 rất hiệu quả.[60]

HIV tìm kiếm và phá hủy CCR5 bộc phát bên trong tế bào T CD4+ trong khi nhiễm trùng cấp tính.[61] Một sự phản ứng miễn dịch mạnh mẽ cuối cùng chuyển sang quá trình kiểm soát nhiễm trùng và bắt đầu giai đoạn tiềm ẩn lâm sàng. Các tế bào T CD4+ trong các mô niêm mạc đặc biệt vẫn bị ảnh hưởng.[61] Sự sao chép liên tục của HIV xảy ra khiến cho tình trạng kích hoạt miễn dịch tổng quát vẫn tồn tại trong suốt giai đoạn mãn tính.[62] Do đó, sự kích hoạt miễn dịch, được phản ánh bởi trạng thái kích hoạt tăng của các tế bào miễn dịch và giải phóng các cytokine tiền viêm, là kết quả từ hoạt động của một số sản phẩm gen HIV và đáp ứng miễn dịch đối với sự nhân lên của HIV đang diễn ra. Nó cũng liên quan đến sự phá vỡ hệ thống giám sát miễn dịch của hàng rào niêm mạc đường tiêu hóa gây ra bởi sự suy giảm của các tế bào T CD4+ trong giai đoạn cấp tính của căn bệnh.[63]

Chẩn đoán

[sửa | sửa mã nguồn]

Các xét nghiệm HIV được sử dụng để phát hiện sự hiện diện của virus HIV trong huyết thanh, nước bọt hoặc nước tiểu. Các xét nghiệm như vậy có thể phát hiện các kháng thể, kháng nguyên hoặc RNA. Giai đoạn cửa sổ là thời gian từ khi bị nhiễm trùng cho đến khi xét nghiệm có thể phát hiện bất kỳ thay đổi nào. Thời gian cửa sổ trung bình với xét nghiệm kháng thể HIV-1 là 25 ngày đối với phân nhóm B. Xét nghiệm kháng nguyên cắt giảm thời gian cửa sổ xuống còn khoảng 16 ngày và xét nghiệm axit nucleic (NAT) tiếp tục giảm thời gian này xuống còn 12 ngày.[64]

Phòng ngừa

[sửa | sửa mã nguồn]

Phòng chống lây nhiễm HIV, chủ yếu thông qua các chương trình trao đổi kim tiêm và tình dục an toàn, là một chiến dịch quan trọng để kiểm soát sự lây lan của căn bệnh này. Tăng cường việc nhận thức và các biện pháp phòng ngừa đối với người dân cũng đóng một vai trò quan trọng. Liệu pháp gen được đề nghị là biện pháp khả thi để ngăn ngừa hoặc điều trị nhiễm HIV.[cần dẫn nguồn]

Trước phơi nhiễm

[sửa | sửa mã nguồn]

Theo nghiên cứu, dự phòng trước phơi nhiễm (tiếng Anh: Pre-exposure prophylaxis, viết tắt là PrEP) mang lại hiệu quả phòng ngừa cao nếu được sử dụng đúng theo chỉ dẫn, làm giảm nguy cơ nhiễm HIV lên đến 99%.[65]

Sau phơi nhiễm

[sửa | sửa mã nguồn]

Năm 2007, Trung tâm Kiểm soát và Phòng ngừa Bệnh tật của Hoa Kì khuyến cáo phác đồ thuốc HIV 28 ngày cho những người tin là họ đã tiếp xúc với virus. Phác đồ này đã được chứng minh có hiệu quả ngăn ngừa virus gần 100% nếu bệnh nhân áp dụng điều trị trong vòng 24 giờ sau phơi nhiễm. Độ hiệu quả giảm còn 52% nếu áp dụng điều trị trong 48 giờ; phác đồ này không được khuyến cáo dùng nếu quá 48 giờ sau phơi nhiễm.[cần dẫn nguồn]

Vắc-xin HIV

[sửa | sửa mã nguồn]

Hiện tại không có vaccine nào để phòng ngừa lây nhiễm HIV, và cũng không có một liệu pháp nào có thể loại bỏ hoàn toàn vi-rút HIV ra khỏi cơ thể. Hiện đang có các nghiên cứu tìm vắc-xin ngừa HIV và phát triển thuốc mới kháng retrovirus. Cũng đang có một số thử nghiệm ở người.

Điều trị

[sửa | sửa mã nguồn]

Tuy bệnh không thể chữa khỏi và cũng không có vắc-xin chủng ngừa, nhưng điều trị bằng thuốc kháng virus (ARV) có thể làm chậm tiến trình của bệnh và kéo dài tuổi thọ của người bệnh thêm 8-12 năm, thậm chí lâu hơn nếu uống đều đặn và đủ liều. Thuốc kháng HIV cần phải được uống mỗi ngày, nếu không thì virus có thể nhanh chóng vượt khỏi kiểm soát và trở nên kháng thuốc[66]. Ngay cả khi HIV chuyển sang giai đoạn AIDS với những triệu chứng đặc trưng, thì việc điều trị bằng kháng retrovirus cũng có thể kéo dài tuổi thọ của bệnh nhân ước tính trung bình là hơn 5 năm (thống kê năm 2005).[67] Trong khi đó, nếu không điều trị bằng kháng retrovirus thì bệnh nhân AIDS thường sẽ chết trong vòng 1 năm.[68] Tuy điều trị bằng thuốc kháng virus có thể làm giảm nguy cơ tử vong và các biến chứng từ bệnh này, nhưng thuốc rất tốn kém và có thể gây ra các tác dụng phụ về sức khỏe cho người sử dụng.

Điều trị bằng thuốc kháng retrovirus có thể làm giảm cả hai tỉ lệ tử vong và bệnh tật ở người nhiễm HIV.[69] Mặc dù thuốc kháng retrovirus vẫn không có sẵn để dùng rộng rãi, nhưng việc mở rộng các chương trình điều trị bằng thuốc kháng retrovirus từ năm 2004 đã làm giảm số lượng các ca tử vong do AIDS và số ca nhiễm mới ở nhiều nơi trên thế giới.[16] Những người sống chung với AIDS hiện nay có thể kéo dài và cải thiện chất lượng cuộc sống bằng liệu pháp điều trị kháng vi-rút, hay còn gọi là ART (viết tắt của Anti- Retroviral Therapy). ART là liệu pháp điều trị sử dụng các thuốc kháng vi-rút, hay còn gọi là thuốc ARV (Anti-retrovirus). Các thuốc ARV này có tác dụng làm chậm sự nhân lên của HIV trong cơ thể, do đó làm tăng khả năng miễn dịch và giảm khả năng mắc các nhiễm trùng cơ hội.

Lựa chọn điều trị lý tưởng hiện tại bao gồm các kết hợp ("cocktail") hai hay nhiều loại thuốc kháng retrovirus như hai chất ức chế reverse transcriptase giống nucleoside (NRTI), và một chất ức chế protease hoặc một chất thuốc ức chế reverse transcriptase non-nucleoside (NNRTI). Với điều trị như vậy, kết quả cho thấy HIV không phát hiện được (âm tính) lặp đi lặp lại nhiều lần, nhưng nếu ngưng điều trị lượng virus trong cơ thể sẽ tăng nhanh chóng. Cũng có lo ngại cuối cùng sẽ xuất hiện đề kháng thuốc với phác đồ đó. Những năm gần đây thuật ngữ "điều trị kháng retrovirus tích cực cao" (highly-active anti-retroviral therapy, HAART) thường được dùng để chỉ cách thức điều trị này. Tuy nhiên, điều không may là phần lớn số người bệnh trên thế giới không tiếp cận được các điều trị HIV và AIDS.[cần dẫn nguồn]

Tiên lượng

[sửa | sửa mã nguồn]
Tử vong do HIV/AIDS trên triệu người năm 2012:
  0
  1–4
  5–12
  13–34
  35–61
  62–134
  135–215
  216–458
  459–1,402
  1,403–5,828

HIV/AIDS đã trở thành mãn tính chứ không phải là một căn bệnh gây tử vong cấp tính ở nhiều khu vực trên thế giới.[70] Tiên lượng khác nhau giữa từng người và cả số lượng CD4 và tải lượng vi-rút đều hữu ích cho các kết quả dự đoán.[71] Nếu không điều trị, thời gian sống sót trung bình sau khi nhiễm HIV được ước tính là 9 đến 11 năm, tùy thuộc vào phân nhóm HIV.[72] Sau khi chẩn đoán AIDS, nếu không có phương pháp điều trị, thời gian sống sót dao động từ 6 đến 19 tháng.[68][73] Liệu pháp kháng retrovirus có hoạt tính cao (HAART) và phòng ngừa thích hợp các bệnh nhiễm trùng cơ hội giúp giảm 80% tỷ lệ tử vong và tăng tuổi thọ cho một thanh niên mới được chẩn đoán mắc bệnh lên 20–50 năm.[70][74][75] Con số này nằm giữa hai phần ba[74] và gần bằng tuổi thọ của dân số chung.[76][77] ations Programme on HIV/AIDS[78] Nếu bắt đầu điều trị muộn khi nhiễm trùng, tiên lượng sẽ không tốt:[76] ví dụ, nếu bắt đầu điều trị sau khi chẩn đoán AIDS, kỳ vọng sống là ~10–40 năm.[70][76] Một nửa số trẻ sơ sinh nhiễm HIV chết trước hai tuổi mà không được điều trị.[79] [cần giải thích]

Dịch tễ học

[sửa | sửa mã nguồn]

Từ khi phát hiện ra HIV vào năm 1981 cho đến năm 2006, AIDS đã giết chết hơn 25 triệu người.[80] Theo số liệu năm 2006, khoảng 0,6% dân số thế giới bị nhiễm HIV.[80] Năm 2009, toàn thế giới có 1,8 triệu người mắc bệnh AIDS, đã giảm so với mức đỉnh là 2,1 triệu người trong năm 2004.[16] Khoảng 260.000 trẻ em chết vì AIDS trong năm 2009. Một con số không cân xứng của số người tử vong do AIDS ở vùng Châu Phi hạ Sahara đã làm chậm tăng trưởng kinh tế và làm trầm trọng thêm gánh nặng của nghèo đói.[81] Trong năm 2005, ước tính ở châu Phi có khoảng 26 triệu người bị nhiễm HIV, kết quả là một ước lượng tối thiểu sẽ có 18 triệu trẻ mồ côi.[82] Ước tính vẫn có khoảng 2,6 triệu người mới bị nhiễm HIV trong năm 2009.[16]

Lịch sử

[sửa | sửa mã nguồn]

Cả HIV-1 và HIV-2 đều được cho là có nguồn gốc từ các loài linh trưởng không phải người ở Tây-trung Phi, và lây truyền sang người vào đầu thế kỉ 20.[14] AIDS được công nhận đầu tiên bởi Trung tâm kiểm soát và phòng ngừa dịch bệnh Hoa Kỳ (CDC) vào năm 1981 và nguyên nhân của nó—nhiễm HIV—được xác định vào đầu thập niên 1980.[15] Báo cáo khoa học đầu tiên về HIV/AIDS được công bố vào ngày 5 tháng 6 năm 1981, khi Trung tâm Kiểm soát và Phòng ngừa Dịch bệnh Hoa Kỳ mô tả những trường hợp nhiễm trùng phổi hiếm gặp ở nhóm nam đồng tính luyến ái tại Los Angeles. Sau đó, những ca nhiễm trùng hiếm gặp ở nam quan hệ tình dục đồng tính cũng được báo cáo từ các đô thị trên khắp nước Mỹ, thúc đẩy nhiều cuộc điều tra khoa học hơn.[83] CDC từng đề cập đến bệnh này là "bệnh 4H", do triệu chứng có vẻ tác động đến người sử dụng heroin, người đồng tính (homosexual), người bệnh hemophilia, và người Haiti.[84][85] Thuật ngữ GRID, viết tắt của "suy giảm miễn dịch liên quan đến người đồng tính nam" (gay-related immune deficiency), đã được đặt ra.[86] Tuy nhiên, sau khi xác định rằng AIDS không chỉ khu trú ở cộng đồng đồng tính nam,[87] người ta nhận ra thuật ngữ GRID gây hiểu nhầm, và thuật ngữ AIDS được giới thiệu trong một cuộc họp vào tháng 7 năm 1982.[88] Đến tháng 9 năm 1982, CDC bắt đầu đề cập đến bệnh này với tên AIDS.[15][89] Việc chủ quan đối với HIV càng làm tăng nguy cơ bị lây bệnh.[90][91]

Xã hội và văn hóa

[sửa | sửa mã nguồn]

Định kiến

[sửa | sửa mã nguồn]
Một nam thiếu niên đặt tay lên vai trái của mình mỉm cười trước ống kính
Ryan White trở thành hình tượng trẻ em bị nhiễm HIV sau khi bị cho nghỉ học vì bị nhiễm bệnh.[92]

Sự kỳ thị AIDS tồn tại trên khắp thế giới theo nhiều cách khác nhau, bao gồm tẩy chay, từ chối, phân biệt đối xử và tránh những người nhiễm HIV; xét nghiệm HIV bắt buộc mà không có sự đồng ý trước hoặc bảo vệ bí mật cho họ; bạo lực đối với những người nhiễm HIV hoặc những người được coi là nhiễm HIV; và cách ly những người nhiễm HIV.[93] Bạo lực liên quan đến kỳ thị hoặc nỗi sợ bạo lực ngăn cản nhiều người tìm kiếm xét nghiệm HIV, quay lại lấy kết quả hoặc đảm bảo điều trị, có thể biến một căn bệnh mãn tính có thể kiểm soát được thành bản án tử hình và tiếp tục lây lan HIV.[94]

Quan niệm sai lầm

[sửa | sửa mã nguồn]

Có nhiều quan niệm sai lầm về HIV và AIDS. Ba quan niệm sai lầm là AIDS có thể lây lan qua tiếp xúc thông thường, quan hệ tình dục với một trinh nữ sẽ chữa khỏi bệnh AIDS,[95][96][97] và HIV chỉ có thể lây nhiễm cho những người đồng tính nam và những người sử dụng ma túy.[98][99] Vào năm 2014, một số người dân Anh đã lầm tưởng rằng một người có thể nhiễm HIV từ việc hôn (16%), dùng chung ly (5%), khạc nhổ (16%), ngồi trong nhà vệ sinh công cộng (4%), và ho hoặc hắt hơi (5%).[100]

Nghiên cứu

[sửa | sửa mã nguồn]

Nghiên cứu về HIV/AIDS bao gồm tất cả nghiên cứu y học cố gắng ngăn ngừa, điều trị hoặc chữa khỏi HIV/AIDS, cùng với nghiên cứu cơ bản về bản chất của HIV như một tác nhân truyền nhiễm và về AIDS là căn bệnh do HIV gây ra.

Nhiều chính phủ và viện nghiên cứu tham gia nghiên cứu về HIV/AIDS. Nghiên cứu này bao gồm hành vi can thiệp sức khỏe như giáo dục giới tínhphát triển thuốc, như nghiên cứu về thuốc diệt vi khuẩn đối với các bệnh lây truyền qua đường tình dục, vắc-xin HIVthuốc kháng virus. Các lĩnh vực nghiên cứu y học khác bao gồm các chủ đề dự phòng trước phơi nhiễm, dự phòng sau phơi nhiễm, cắt bao quy đầu và HIV. Các nhân viên y tế công cộng, nhà nghiên cứu và chương trình y tế công cộng có thể có được bức tranh toàn cảnh hơn về những rào cản mà họ gặp phải cũng như hiệu quả của các phương pháp điều trị và phòng ngừa HIV hiện tại bằng cách theo dõi các chỉ số HIV tiêu chuẩn.[101] Việc sử dụng các chỉ báo chung ngày càng được các tổ chức phát triển và nhà nghiên cứu chú trọng.[102][103]

Chú thích

[sửa | sửa mã nguồn]
  1. ^ “Wear your red ribbon this World AIDS Day | UNAIDS”. www.unaids.org. UNAIDS Secretariat. Truy cập ngày 10 tháng 9 năm 2017.
  2. ^ a b c d e f g h i “HIV/AIDS Fact sheet N°360”. World Health Organization. tháng 11 năm 2015. Lưu trữ bản gốc ngày 17 tháng 2 năm 2016. Truy cập ngày 11 tháng 2 năm 2016.
  3. ^ “About HIV/AIDS”. CDC. ngày 6 tháng 12 năm 2015. Lưu trữ bản gốc ngày 24 tháng 2 năm 2016. Truy cập ngày 11 tháng 2 năm 2016.
  4. ^ UNAIDS (ngày 18 tháng 5 năm 2012). “The quest for an HIV vaccine”. Lưu trữ bản gốc ngày 24 tháng 5 năm 2012.
  5. ^ a b c “Global summary of the AIDS epidemic 2016” (PDF). UNAIDS. UNAIDS. tháng 6 năm 2017. Truy cập ngày 10 tháng 9 năm 2017.
  6. ^ “Stages of HIV”. U.S. Department of Health & Human Services. tháng 12 năm 2010. Bản gốc lưu trữ ngày 19 tháng 3 năm 2013. Truy cập ngày 13 tháng 6 năm 2012.
  7. ^ Mandell, Bennett, and Dolan (2010). Chapter 121.
  8. ^ “HIV Classification: CDC and WHO Staging Systems”. Guide for HIV/AIDS Clinical Care. AIDS Education and Training Center Program. Bản gốc lưu trữ ngày 22 tháng 11 năm 2015. Truy cập ngày 21 tháng 11 năm 2015.
  9. ^ Sepkowitz KA (2001). “AIDS—the first 20 years”. N. Engl. J. Med. 344 (23): 1764–72. doi:10.1056/NEJM200106073442306. PMID 11396444.
  10. ^ editors, Alexander Krämer, Mirjam Kretzschmar, Klaus Krickeberg (2010). Modern infectious disease epidemiology concepts, methods, mathematical models, and public health . New York: Springer. tr. 88. ISBN 9780387938356.Quản lý CS1: văn bản dư: danh sách tác giả (liên kết)
  11. ^ Wilhelm Kirch (2008). Encyclopedia of public health. New York: Springer. tr. 676–677. ISBN 9781402056130.Quản lý CS1: sử dụng tham số tác giả (liên kết)
  12. ^ Markowitz, edited by William N. Rom; associate editor, Steven B. (2007). Environmental and occupational medicine (ấn bản thứ 4). Philadelphia: Wolters Kluwer/Lippincott Williams & Wilkins. tr. 745. ISBN 978-0-7817-6299-1.Quản lý CS1: văn bản dư: danh sách tác giả (liên kết)
  13. ^ “HIV and Its Transmission”. Centers for Disease Control and Prevention. 2003. Lưu trữ bản gốc ngày 4 tháng 2 năm 2005. Truy cập ngày 23 tháng 5 năm 2006.
  14. ^ a b Sharp PM, Hahn BH (tháng 9 năm 2011). “Origins of HIV and the AIDS pandemic”. Cold Spring Harbor Perspectives in Medicine. 1 (1): a006841. doi:10.1101/cshperspect.a006841. PMC 3234451. PMID 22229120.
  15. ^ a b c Gallo RC (tháng 10 năm 2006). “A reflection on HIV/AIDS research after 25 years”. Retrovirology. 3 (1): 72. doi:10.1186/1742-4690-3-72. PMC 1629027. PMID 17054781.
  16. ^ a b c d e Chương trình phối hợp của Liên Hợp Quốc về HIV/AIDS (2010). “Overview of the global AIDS epidemic”. UN report on the global AIDS epidemic 2010. ISBN 978-92-9173-871-7.
  17. ^ PMID 20628133 (PMID 20628133)
    Citation will be completed automatically in a few minutes. Jump the queue or expand by hand
  18. ^ Lawn SD (2004). “AIDS in Africa: the impact of coinfections on the pathogenesis of HIV-1 infection”. J. Infect. Dis. 48 (1): 1–12. doi:10.1016/j.jinf.2003.09.001. PMID 14667787.
  19. ^ Buchbinder SP, Katz MH, Hessol NA, O'Malley PM, Holmberg SD. (1994). “Long-term HIV-1 infection without immunologic progression”. AIDS. 8 (8): 1123–8. doi:10.1097/00002030-199408000-00014. PMID 7986410.Quản lý CS1: nhiều tên: danh sách tác giả (liên kết)
  20. ^ “Time from HIV-1 seroconversion to AIDS and death before widespread use of highly active antiretroviral therapy: a collaborative re-analysis. Collaborative Group on AIDS Incubation and HIV Survival including the CASCADE EU Concerted Action. Concerted Action on SeroConversion to AIDS and Death in Europe”. Lancet. 355 (9210): 1131–7. 2000. doi:10.1016/S0140-6736(00)02061-4. PMID 10791375.
  21. ^ Grabar, S., Selinger-Leneman, H., Abgrall, S., Pialoux, G., Weiss, L., Costagliola, D. (2009). “Prevalence and comparative characteristics of long-term nonprogressors and HIV controller patients in the French Hospital Database on HIV”. AIDS. 23 (9): 1163–1169. doi:10.1097/QAD.0b013e32832b44c8. PMID 19444075.Quản lý CS1: nhiều tên: danh sách tác giả (liên kết)
  22. ^ PMID 20350494 (PMID 20350494)
    Citation will be completed automatically in a few minutes. Jump the queue or expand by hand
  23. ^ a b Piatak M, Saag MS, Yang LC, Clark SJ, Kappes JC, Luk KC, Hahn BH, Shaw GM, Lifson JD (tháng 3 năm 1993). “High levels of HIV-1 in plasma during all stages of infection determined by competitive PCR”. Science. 259 (5102): 1749–54. Bibcode:1993Sci...259.1749P. doi:10.1126/science.8096089. PMID 8096089.
  24. ^ a b Pantaleo G, Demarest JF, Schacker T, Vaccarezza M, Cohen OJ, Daucher M, Graziosi C, Schnittman SS, Quinn TC, Shaw GM, Perrin L, Tambussi G, Lazzarin A, Sekaly RP, Soudeyns H, Corey L, Fauci AS (tháng 1 năm 1997). “The qualitative nature of the primary immune response to HIV infection is a prognosticator of disease progression independent of the initial level of plasma viremia”. Proceedings of the National Academy of Sciences of the United States of America. 94 (1): 254–58. Bibcode:1997PNAS...94..254P. doi:10.1073/pnas.94.1.254. PMC 19306. PMID 8990195.
  25. ^ Kahn, J. O. and Walker, B. D. (1998). “Acute Human Immunodeficiency Virus type 1 infection”. N. Engl. J. Med. 331 (1): 33–39. doi:10.1056/NEJM199807023390107. PMID 9647878.Quản lý CS1: nhiều tên: danh sách tác giả (liên kết)
  26. ^ Daar ES, Little S, Pitt J (2001). “Diagnosis of primary HIV-1 infection. Los Angeles County Primary HIV Infection Recruitment Network”. Ann. Intern. Med. 134 (1): 25–9. PMID 11187417.Quản lý CS1: nhiều tên: danh sách tác giả (liên kết)
  27. ^ Burton GF, Keele BF, Estes JD, Thacker TC, Gartner S. (2002). “Follicular dendritic cell contributions to HIV pathogenesis”. Semin Immunol. 14 (4): 275–284. doi:10.1016/S1044-5323(02)00060-X. PMID 12163303.Quản lý CS1: nhiều tên: danh sách tác giả (liên kết)
  28. ^ Clapham PR, McKnight A. (2001). “HIV-1 receptors and cell tropism”. Br Med Bull. 58 (4): 43–59. doi:10.1093/bmb/58.1.43. PMID 11714623.
  29. ^ Kitahata MM, Gange SJ, Abraham AG (2009). “Effect of early versus deferred antiretroviral therapy for HIV on survival”. N. Engl. J. Med. 360 (18): 1815–26. doi:10.1056/NEJMoa0807252. PMC 2854555. PMID 19339714.Quản lý CS1: nhiều tên: danh sách tác giả (liên kết)
  30. ^ Donegan, Elizabeth; Stuart, Maria; Niland, Joyce C.; Sacks, Henry S.; Azen, Stanley P.; Dietrich, Shelby L.; Faucett, Cheryl; Fletcher, Mary Ann; Kleinman, Steven H.; Operskalski, Eva A.; Perkins, Herbert A.; Pindyck, Johanna; Schiff, Eugene R.; Stites, Daniel P.; Tomasulo, Peter A.; Mosley, James W. (15 tháng 11 năm 1990). “Infection with Human Immunodeficiency Virus Type 1 (HIV-1) among Recipients of Antibody-Positive Blood Donations”. Annals of Internal Medicine. 113 (10): 733–739. doi:10.7326/0003-4819-113-10-733. Truy cập ngày 11 tháng 5 năm 2020.
  31. ^ a b Coovadia H (2004). “Antiretroviral agents—how best to protect infants from HIV and save their mothers from AIDS”. N. Engl. J. Med. 351 (3): 289–292. doi:10.1056/NEJMe048128. PMID 15247337.
  32. ^ Smith DK, Grohskopf LA, Black RJ, Auerbach JD, Veronese F, Struble KA, Cheever L, Johnson M, Paxton LA, Onorato IM, Greenberg AE (21 tháng 1 năm 2005). “Antiretroviral postexposure prophylaxis after sexual, injection-drug use, or other nonoccupational exposure to HIV in the United States: recommendations from the U.S. Department of Health and Human Services”. MMWR. Recommendations and reports : Morbidity and mortality weekly report. Recommendations and reports / Centers for Disease Control. 54 (RR-2): 1–20. PMID 15660015.
  33. ^ Kripke C (1 tháng 8 năm 2007). “Antiretroviral prophylaxis for occupational exposure to HIV”. American Family Physician. 76 (3): 375–6. PMID 17708137.
  34. ^ a b c d Dosekun O, Fox J (tháng 7 năm 2010). “An overview of the relative risks of different sexual behaviours on HIV transmission”. Current Opinion in HIV and AIDS. 5 (4): 291–7. doi:10.1097/COH.0b013e32833a88a3. PMID 20543603.
  35. ^ Cunha, Burke (2012). Antibiotic Essentials 2012 (ấn bản thứ 11). Jones & Bartlett Publishers. tr. 303. ISBN 9781449693831.
  36. ^ a b Boily MC, Baggaley RF, Wang L, Masse B, White RG, Hayes RJ, Alary M (tháng 2 năm 2009). “Heterosexual risk of HIV-1 infection per sexual act: systematic review and meta-analysis of observational studies”. The Lancet Infectious Diseases. 9 (2): 118–29. doi:10.1016/S1473-3099(09)70021-0. PMC 4467783. PMID 19179227.
  37. ^ Baggaley RF, White RG, Boily MC (tháng 12 năm 2008). “Systematic review of orogenital HIV-1 transmission probabilities”. International Journal of Epidemiology. 37 (6): 1255–65. doi:10.1093/ije/dyn151. PMC 2638872. PMID 18664564.
  38. ^ Boily MC, Baggaley RF, Wang L, Masse B, White RG, Hayes RJ, Alary M (tháng 2 năm 2009). “Heterosexual risk of HIV-1 infection per sexual act: systematic review and meta-analysis of observational studies”. The Lancet. Infectious Diseases. 9 (2): 118–29. doi:10.1016/S1473-3099(09)70021-0. PMC 4467783. PMID 19179227.
  39. ^ National Institute of Allergy and Infectious Diseases (ngày 20 tháng 7 năm 2001). Workshop Summary: Scientific Evidence on Condom Effectiveness for Sexually Transmitted Disease (STD) Prevention (PDF). National Institutes of Health, Department of Health and Human Services. Hyatt Dulles Airport, Herndon, Virginia. tr. 13–15. Truy cập ngày 11 tháng 10 năm 2011.
  40. ^ “Should spermicides be used with condoms?”. Condoms and Sexually Transmitted Diseases, Brochure. United States Food and Drug Administration. ngày 30 tháng 4 năm 2009. Truy cập ngày 23 tháng 7 năm 2009.
  41. ^ Global Campaign for Microbicides: Rectal Use of N-9 Lưu trữ 2012-08-21 tại Wayback Machine checked 2009-07-22
  42. ^ Nonoxynol-9 Spermicide on HIV Risk List Lưu trữ 2012-08-21 tại Wayback Machine checked 2009-07-22
  43. ^ Williams BG, Lloyd-Smith JO, Gouws E, Hankins C, Getz WM, Hargrove J, de Zoysa I, Dye C, Auvert B. (2006). “The Potential Impact of Male Circumcision on HIV in Sub-Saharan Africa”. PLoS Med. 3 (7): e262. doi:10.1371/journal.pmed.0030262. PMC 1489185. PMID 16822094.Quản lý CS1: nhiều tên: danh sách tác giả (liên kết)
  44. ^ Bailey RC, Moses S, Parker CB (2007). “Male circumcision for HIV prevention in young men in Kisumu, Kenya: a randomised controlled trial”. Lancet. 369 (9562): 643–56. doi:10.1016/S0140-6736(07)60312-2. PMID 17321310.Quản lý CS1: nhiều tên: danh sách tác giả (liên kết)
  45. ^ Gray RH (ngày 24 tháng 2 năm 2007). “Male circumcision for HIV prevention in men in Rakai, Uganda: a randomised trial”. Lancet. 369 (9562): 657–66. doi:10.1016/S0140-6736(07)60313-4. PMID 17321311.
  46. ^ WHO (2007). “WHO and UNAIDS announce recommendations from expert consultation on male circumcision for HIV prevention”. WHO.int. Truy cập ngày 13 tháng 7 năm 2007.
  47. ^ Maslovskaya O, Brown JJ, Padmadas SS (2009). “Disentangling the complex association between female genital cutting and HIV among Kenyan women”. J Biosoc Sci. 41 (6): 815–30. doi:10.1017/S0021932009990150. PMID 19607733.Quản lý CS1: nhiều tên: danh sách tác giả (liên kết)
  48. ^ Utz-Billing I, Kentenich H (2008). “Female genital mutilation: an injury, physical and mental harm”. J Psychosom Obstet Gynaecol. 29 (4): 225–9. doi:10.1080/01674820802547087. PMID 19065392.
  49. ^ Nyindo M (2005). “Complementary factors contributing to the rapid spread of HIV-I in sub-Saharan Africa: a review”. East Afr Med J. 82 (1): 40–6. PMID 16122111.
  50. ^ Mboto CI, Fielder M, Davies-Russell A, Jewell AP (2009). “Prevalence of HIV-1, HIV-2, hepatitis C and co-infection in The Gambia”. West Afr J Med. 28 (1): 16–9. PMID 19662739.Quản lý CS1: nhiều tên: danh sách tác giả (liên kết)
  51. ^ Underhill K, Operario D, Montgomery P (2008). “Abstinence-only programs for HIV infection prevention in high-income countries”. Cochrane Database of Systematic Reviews (4): CD005421. doi:10.1002/14651858.CD005421.pub2. PMID 17943855.Quản lý CS1: nhiều tên: danh sách tác giả (liên kết)
  52. ^ Lifson AR (1988). “Do alternate modes for transmission of human immunodeficiency virus exist? A review”. JAMA. 259 (9): 1353–6. doi:10.1001/jama.259.9.1353. PMID 2963151.
  53. ^ “Why Mosquitoes Cannot Transmit AIDS [HIV virus&#93”. Rci.rutgers.edu. Bản gốc lưu trữ ngày 29 tháng 3 năm 2014. Truy cập ngày 28 tháng 7 năm 2010.
  54. ^ Cochrane Systematic Review on interventions for prevention of late postnatal mother-to-child transmission of HIV http://www.cochrane.org/reviews/en/ab006734.html
  55. ^ UNAIDS. “2009 AIDS Epidemic Update” (PDF). Truy cập ngày 24 tháng 10 năm 2010Bản mẫu:Inconsistent citationsQuản lý CS1: postscript (liên kết)
  56. ^ Hel Z, McGhee JR, Mestecky J (tháng 6 năm 2006). “HIV infection: first battle decides the war”. Trends in Immunology. 27 (6): 274–81. doi:10.1016/j.it.2006.04.007. PMID 16679064.
  57. ^ Pillay, Deenan; Genetti, Anna Maria; Weiss, Robin A. (2007). “Human Immunodeficiency Viruses”. Trong Zuckerman, Arie J.; và đồng nghiệp (biên tập). Principles and practice of clinical virology (ấn bản thứ 6). Hoboken, NJ: Wiley. tr. 905. ISBN 978-0-470-51799-4.
  58. ^ Mehandru S, Poles MA, Tenner-Racz K, Horowitz A, Hurley A, Hogan C, Boden D, Racz P, Markowitz M (tháng 9 năm 2004). “Primary HIV-1 infection is associated with preferential depletion of CD4+ T lymphocytes from effector sites in the gastrointestinal tract”. The Journal of Experimental Medicine. 200 (6): 761–70. doi:10.1084/jem.20041196. PMC 2211967. PMID 15365095.
  59. ^ Brenchley JM, Schacker TW, Ruff LE, Price DA, Taylor JH, Beilman GJ, Nguyen PL, Khoruts A, Larson M, Haase AT, Douek DC (tháng 9 năm 2004). “CD4+ T cell depletion during all stages of HIV disease occurs predominantly in the gastrointestinal tract”. The Journal of Experimental Medicine. 200 (6): 749–59. doi:10.1084/jem.20040874. PMC 2211962. PMID 15365096.
  60. ^ Olson WC, Jacobson JM (tháng 3 năm 2009). “CCR5 monoclonal antibodies for HIV-1 therapy”. Current Opinion in HIV and AIDS. 4 (2): 104–11. doi:10.1097/COH.0b013e3283224015. PMC 2760828. PMID 19339948.
  61. ^ a b editor, Julio Aliberti (2011). Control of Innate and Adaptive Immune Responses During Infectious Diseases. New York: Springer Verlag. tr. 145. ISBN 978-1-4614-0483-5. Lưu trữ bản gốc ngày 24 tháng 9 năm 2015. Truy cập ngày 27 tháng 6 năm 2015.Quản lý CS1: văn bản dư: danh sách tác giả (liên kết)
  62. ^ Appay V, Sauce D (tháng 1 năm 2008). “Immune activation and inflammation in HIV-1 infection: causes and consequences”. The Journal of Pathology. 214 (2): 231–41. doi:10.1002/path.2276. PMID 18161758.
  63. ^ Brenchley JM, Price DA, Schacker TW, Asher TE, Silvestri G, Rao S, Kazzaz Z, Bornstein E, Lambotte O, Altmann D, Blazar BR, Rodriguez B, Teixeira-Johnson L, Landay A, Martin JN, Hecht FM, Picker LJ, Lederman MM, Deeks SG, Douek DC (tháng 12 năm 2006). “Microbial translocation is a cause of systemic immune activation in chronic HIV infection”. Nature Medicine. 12 (12): 1365–71. doi:10.1038/nm1511. PMC 1717013. PMID 17115046.
  64. ^ FDA Approves First Nucleic Acid Test (NAT) Systems to Screen Plasma for Human Immunodeficiency Virus (HIV) and Hepatitis C Virus (HCV),
  65. ^ “Effectiveness of Prevention Strategies to Reduce the Risk of Acquiring or Transmitting HIV”. Centers for Disease Control and Prevention (CDC). 12 tháng 11 năm 2019. Lưu trữ bản gốc ngày 10 tháng 12 năm 2019. Truy cập ngày 9 tháng 12 năm 2019.
  66. ^ “ARVs Not a Cure”. Bản gốc lưu trữ ngày 16 tháng 5 năm 2014. Truy cập 11 tháng 2 năm 2015.
  67. ^ Schneider MF, Gange SJ, Williams CM, Anastos K, Greenblatt RM, Kingsley L, Detels R, Munoz A (2005). “Patterns of the hazard of death after AIDS through the evolution of antiretroviral therapy: 1984–2004”. AIDS. 19 (17): 2009–18. doi:10.1097/01.aids.0000189864.90053.22. PMID 16260908.Quản lý CS1: nhiều tên: danh sách tác giả (liên kết)
  68. ^ a b Morgan D, Mahe C, Mayanja B, Okongo JM, Lubega R, Whitworth JA (2002). “HIV-1 infection in rural Africa: is there a difference in median time to AIDS and survival compared with that in industrialized countries?”. AIDS. 16 (4): 597–632. doi:10.1097/00002030-200203080-00011. PMID 11873003.Quản lý CS1: nhiều tên: danh sách tác giả (liên kết)
  69. ^ Palella, F. J. Jr, Delaney, K. M., Moorman, A. C., Loveless, M. O., Fuhrer, J., Satten, G. A., Aschman and D. J., Holmberg, S. D. (1998). “Declining morbidity and mortality among patients with advanced human immunodeficiency virus infection. HIV Outpatient Study Investigators”. N. Engl. J. Med. 338 (13): 853–860. doi:10.1056/NEJM199803263381301. PMID 9516219.Quản lý CS1: nhiều tên: danh sách tác giả (liên kết)
  70. ^ a b c Knoll B, Lassmann B, Temesgen Z (tháng 12 năm 2007). “Current status of HIV infection: a review for non-HIV-treating physicians”. International Journal of Dermatology. 46 (12): 1219–28. doi:10.1111/j.1365-4632.2007.03520.x. PMID 18173512. S2CID 26248996.
  71. ^ Mandell, Bennett, and Dolan (2010). Chapter 118.
  72. ^ UNAIDS, World Health Organization (tháng 12 năm 2007). “2007 AIDS epidemic update” (PDF). Bản gốc (PDF) lưu trữ ngày 27 tháng 5 năm 2008. Truy cập ngày 12 tháng 3 năm 2008.
  73. ^ Zwahlen M, Egger M (2006). Progression and mortality of untreated HIV-positive individuals living in resource-limited settings: update of literature review and evidence synthesis (PDF) (Bản báo cáo). UNAIDS Obligation HQ/05/422204. Lưu trữ (PDF) bản gốc ngày 9 tháng 4 năm 2008. Truy cập ngày 19 tháng 3 năm 2008.
  74. ^ a b Antiretroviral Therapy Cohort Collaboration (tháng 7 năm 2008). “Life expectancy of individuals on combination antiretroviral therapy in high-income countries: a collaborative analysis of 14 cohort studies”. The Lancet. 372 (9635): 293–99. doi:10.1016/S0140-6736(08)61113-7. PMC 3130543. PMID 18657708.
  75. ^ Schackman BR, Gebo KA, Walensky RP, Losina E, Muccio T, Sax PE, Weinstein MC, Seage GR, Moore RD, Freedberg KA (tháng 11 năm 2006). “The lifetime cost of current human immunodeficiency virus care in the United States”. Medical Care. 44 (11): 990–97. doi:10.1097/01.mlr.0000228021.89490.2a. PMID 17063130. S2CID 21175266.
  76. ^ a b c Vogel M, Schwarze-Zander C, Wasmuth JC, Spengler U, Sauerbruch T, Rockstroh JK (tháng 7 năm 2010). “The treatment of patients with HIV”. Deutsches Ärzteblatt International. 107 (28–29): 507–15, quiz 516. doi:10.3238/arztebl.2010.0507. PMC 2915483. PMID 20703338.
  77. ^ Nelson VM, Benson AB (tháng 1 năm 2017). “Epidemiology of Anal Canal Cancer”. Surgical Oncology Clinics of North America. 26 (1): 9–15. doi:10.1016/j.soc.2016.07.001. PMID 27889039.
  78. ^ van Sighem AI, Gras LA, Reiss P, Brinkman K, de Wolf F (tháng 6 năm 2010). “Life expectancy of recently diagnosed asymptomatic HIV-infected patients approaches that of uninfected individuals”. AIDS. 24 (10): 1527–35. doi:10.1097/QAD.0b013e32833a3946. PMID 20467289. S2CID 205987336.
  79. ^ UNAIDS 2011 pg. 150–160
  80. ^ a b Chương trình phối hợp của Liên Hợp Quốc về HIV/AIDS (2006). “Overview of the global AIDS epidemic” (PDF). 2006 Report on the global AIDS epidemic (PDF) |format= cần |url= (trợ giúp). ISBN 9291734799. Truy cập ngày 8 tháng 6 năm 2006.
  81. ^ Greener, R. (2002). “AIDS and macroeconomic impact”. Trong S, Forsyth (biên tập). State of The Art: AIDS and Economics. IAEN. tr. 49–55. Bản gốc lưu trữ ngày 31 tháng 1 năm 2010. Truy cập ngày 19 tháng 9 năm 2020.
  82. ^ Chương trình phối hợp của Liên Hợp Quốc về HIV/AIDS (2005). “AIDS epidemic update, 2005” (PDF). Truy cập ngày 28 tháng 2 năm 2006.
  83. ^ JUNE 5, 1981—THE FIRST REPORT OF AIDS IN THE U.S.
  84. ^ Gilman, Sander L. (1987). Gilman, Sander L. (biên tập). “AIDS and Syphilis: The Iconography of Disease”. October. 43: 87–107. doi:10.2307/3397566. JSTOR 3397566.
  85. ^ “Making Headway Under Hellacious Circumstances” (PDF). American Association for the Advancement of Science. 28 tháng 7 năm 2006. Lưu trữ (PDF) bản gốc ngày 24 tháng 6 năm 2008. Truy cập ngày 23 tháng 6 năm 2008.
  86. ^ Altman, Lawrence K. (11 tháng 5 năm 1982). “New homosexual disorder worries health officials”. The New York Times. Lưu trữ bản gốc ngày 30 tháng 4 năm 2013. Truy cập ngày 31 tháng 8 năm 2011.
  87. ^ Centers for Disease Control (CDC) (tháng 7 năm 1982). “Opportunistic infections and Kaposi's sarcoma among Haitians in the United States”. Morbidity and Mortality Weekly Report. 31 (26): 353–54, 360–61. PMID 6811853. Lưu trữ bản gốc ngày 20 tháng 9 năm 2011.
  88. ^ Kher, Unmesh (27 tháng 7 năm 1982). “A Name for the Plague”. Time. Bản gốc lưu trữ ngày 7 tháng 3 năm 2008. Truy cập ngày 10 tháng 3 năm 2008.
  89. ^ Centers for Disease Control (CDC) (tháng 9 năm 1982). “Update on acquired immune deficiency syndrome (AIDS) – United States”. Morbidity and Mortality Weekly Report. 31 (37): 507–08, 513–14. PMID 6815471.
  90. ^ “CDC – HIV/AIDS – Resources – HIV Prevention in the United States at a Critical Crossroads”. Cdc.gov. Truy cập ngày 28 tháng 7 năm 2010.
  91. ^ “HIV and AIDS among Gay and Bisexual Men” (PDF). Truy cập ngày 28 tháng 7 năm 2010.
  92. ^ “Ryan White, an American AIDS Victim”. Encyclopædia Britannica. ngày 7 tháng 11 năm 2013. Lưu trữ bản gốc ngày 22 tháng 7 năm 2015. Truy cập ngày 16 tháng 7 năm 2015.
  93. ^ “The impact of AIDS on people and societies” (PDF). 2006 Report on the global AIDS epidemic. UNAIDS. 2006. ISBN 978-92-9173-479-5.
  94. ^ Ogden J, Nyblade L (2005). “Common at its core: HIV-related stigma across contexts” (PDF). International Center for Research on Women. Bản gốc (PDF) lưu trữ ngày 17 tháng 2 năm 2007. Truy cập ngày 15 tháng 2 năm 2007.
  95. ^ 'Virgin cure': Three women killed to 'cure' Aids”. International Herald Tribune. ngày 28 tháng 2 năm 2013. Lưu trữ bản gốc ngày 15 tháng 10 năm 2013. Truy cập ngày 14 tháng 9 năm 2013.
  96. ^ Jenny, Carole (2010). Child Abuse and Neglect: Diagnosis, Treatment and Evidence – Expert Consult. Elsevier Health Sciences. tr. 187. ISBN 978-1-4377-3621-2. Lưu trữ bản gốc ngày 27 tháng 11 năm 2015. Truy cập ngày 27 tháng 6 năm 2015.
  97. ^ Klot, Jennifer; Monica Kathina Juma (2011). HIV/AIDS, Gender, Human Security and Violence in Southern Africa. Pretoria: Africa Institute of South Africa. tr. 47. ISBN 978-0-7983-0253-1. Lưu trữ bản gốc ngày 26 tháng 4 năm 2016. Truy cập ngày 27 tháng 6 năm 2015.
  98. ^ Ukockis, Gail (2016). Women's Issues for a New Generation: A Social Work Perspective. Oxford University Press. tr. 407. ISBN 978-0190239404.
  99. ^ Glazzard, Jonathan; Stones, Samuel (2020). Relationships and Sex Education for Secondary Schools (2020): A Practical Toolkit for Teachers. Critical Publishing. tr. 87. ISBN 978-1913063689.
  100. ^ “HIV Public Knowledge and Attitudes 2014” (PDF). National AIDS Trust. tháng 11 năm 2014. tr. 9. Bản gốc (PDF) lưu trữ ngày 12 tháng 2 năm 2015. Truy cập ngày 12 tháng 2 năm 2015.
  101. ^ “Indicators – Program Evaluation – CDC”. www.cdc.gov (bằng tiếng Anh). Lưu trữ bản gốc ngày 23 tháng 8 năm 2018. Truy cập ngày 24 tháng 8 năm 2018.
  102. ^ “Community-Based Indicators for HIV Programs – MEASURE Evaluation”. www.measureevaluation.org (bằng tiếng Anh). Lưu trữ bản gốc ngày 25 tháng 8 năm 2018. Truy cập ngày 24 tháng 8 năm 2018.
  103. ^ “Data and statistics”. World Health Organization (bằng tiếng Anh). Lưu trữ bản gốc ngày 2 tháng 9 năm 2018. Truy cập ngày 24 tháng 8 năm 2018.
Tham khảo

Liên kết ngoài

[sửa | sửa mã nguồn]