Bước tới nội dung

René Higuita

Bách khoa toàn thư mở Wikipedia
René Higuita
Thông tin cá nhân
Tên đầy đủ José René Higuita Zapata
Ngày sinh 27 tháng 8, 1966 (58 tuổi)
Nơi sinh Medellín (Barrio Castilla), Colombia
Chiều cao 1,72 m (5 ft 7+12 in)
Vị trí Thủ môn
Sự nghiệp cầu thủ trẻ
Năm Đội
Millonarios
Sự nghiệp cầu thủ chuyên nghiệp*
Năm Đội ST (BT)
1985 Millonarios 16 (7)
1986–1992 Atlético Nacional 112 (1)
1992 Real Valladolid 15 (2)
1993–1997 Atlético Nacional 69 (1)
1997–1998 Veracruz 30 (2)
1999–2000 Independiente Medellín 20 (11)
2000–2001 Real Cartagena 21 (0)
2001–2002 Atlético Junior 4 (0)
2002–2003 Deportivo Pereira 13 (0)
2004 Aucas 35 (3)
2005 Bajo Cauca 13 (1)
2007 Guaros 10 (5)
2008 Leones F. C. 10 (3)
2008–2010 Deportivo Pereira 12 (5)
Tổng cộng 380 (41)
Sự nghiệp đội tuyển quốc gia
Năm Đội ST (BT)
1987–1999 Colombia[1] 68 (3)
Thành tích huy chương
Đại diện cho  Colombia
Bóng đá nam
Copa América
Huy chương đồng – vị trí thứ ba Argentina 1987 Đội bóng
Huy chương đồng – vị trí thứ ba Uruguay 1995 Đội bóng
*Số trận ra sân và số bàn thắng ở câu lạc bộ tại giải quốc gia

José René Higuita Zapata (phát âm tiếng Tây Ban Nha[reˈne iˈɣita]; sinh ngày 27 tháng 8 năm 1966 tại Medellín) là một cựu thủ môn bóng đá người Colombia. Ông có biệt danh El Loco (Gã điên) bởi biệt tài "máy quét", luôn tham gia tấn công và ra khỏi vòng cấm địa nhưng rất ít khi mắc sai lầm. Trong trận giao hữu gặp Anh vào năm 1995, ông đã cứu một cú sút bằng cách lộn người ra phía trước và dùng chân phá bóng, một kỹ thuật về sau được gọi là "cú đá kiểu bọ cạp" (scorpion kick). Higuita là một trong top 4 những thủ môn ghi bàn nhiều nhất mọi thời đại với 41 bàn thắng, chỉ sau Dimitar Ivankov. Phong cách thi đấu lập dị của Higuita lần đầu tiên được trình diễn tại một trận đấu trong giải vô địch thế giới 1990, ông đã tiên phong trong việc chịu trách nhiệm với tất cả những bàn thắng từ xa ngoài vòng 16m50.[2] IFFHS đã xếp René Higuita là một trong thủ môn xuất sắc nhất thứ tám trong lịch sử bóng đá Nam Mỹ.

Sự nghiệp

[sửa | sửa mã nguồn]

Sự nghiệp câu lạc bộ

[sửa | sửa mã nguồn]

Rene Higuita chơi phần lớn sự nghiệp câu lạc bộ cho đội bóng Colombia Atlético Nacional, nơi ông giành được một vài chức vô địch quốc gia Colombia cũng như Copa LibertadoresCopa Interamericana đều trong năm 1989. Ông đã bỏ ý định giải nghệ để kí hợp đồng với câu lạc bộ Venezuela Guaros de Lara FC.[3] Tháng 1 năm 2008, ở tuổi 41, ông kí hợp đồng với đội hạng hai Colombia là Deportivo Rionegro. Tháng 6 năm 2008, ông kí với đội hạng nhất Colombia là Deportivo Pereira, đồng thời chính thức giã từ sự nghiệp sân cỏ vào tháng 1 năm 2010.[2][4]

Sự nghiệp quốc tế

[sửa | sửa mã nguồn]

Higuita thường xuyên ra sân cho đội tuyển bóng đá quốc gia Colombia và ghi tổng cộng bảy bàn trong 68 trận ra sân quốc tế. "Cú đá bọ cạp" do Higuita phát minh[5] đã khiến ông trở nên nổi tiếng toàn cầu, khi ông thực hiện nó một cách xuất sắc trong trận giao hữu với tuyển Anh tại sân vận động Wembley vào ngày 6 tháng 12 năm 1995[6], để cản phá đường chuyền của Jamie Redknapp,[7] mặc dù trọng tài biên đã phất cờ việt vị.[8] Nó xếp thứ 94 trong 100 khoảnh khắc thể thao tuyệt vời nhất của Channel 4 năm 2002.[9] Theo kết quả của một cuộc thăm dò dư luận của cổng điện tử footy-boots.com đăng trên tờ The Mirror, "cú đá bọ cạp" của Higuita được bình chọn là cú chơi bóng hay nhất trong lịch sử bóng đá thế giới.[10]

Lối chơi không chính thống cũng khiến ông gây ra không ít sai lầm khiến Colombia bị loại khỏi giải vô địch thế giới 1990, khi ông chần chứ với quả bóng dưới chân mình gần vạch vôi, cho phép tiền đạo Roger Milla của Cameroon đoạt bóng và ghi bàn, giúp Cameroon vào tứ kết. Higuita miêu tả nó là "một sai lầm giống như một ngôi nhà vậy"..[11] Cũng vì tình huống này mà Higuita được đặt biệt danh là El Loco ("Gã điên").[12] Higuita còn là bạn với Diego Maradona và cũng chơi trong trận đấu chia tay Argentina năm 2001.

Phong cách chơi

[sửa | sửa mã nguồn]

Trên sân cỏ, Higuita nổi tiếng vì lối chơi kì quặc, thường mắc phải rủi ro không cần thiết và chủ động cố gắng ghi bàn. Ông cũng được biết đến với tài dứt điểm từ chấm đá phạt và phạt đền. Ông còn sáng tạo ra kiểu đá bọ cạp, kiểu đá mà thủ môn nhảy lên phía trước, hai chân vượt qua đầu và đá bóng đi xa bằng gót chân.

Thống kê sự nghiệp

[sửa | sửa mã nguồn]

Bàn thắng quốc tế

[sửa | sửa mã nguồn]
# Ngày Địa điểm Đối thủ Ghi bàn Tỉ số Giải đấu
1. 19 tháng 5 năm 1988 Sân vận động Helsinki Olympic, Helsinki, Phần Lan  Phần Lan
2–1
3–1
Giao hữu
2. 3 tháng 2 năm 1989 Estadio Centenario, Armenia, Colombia  Perú
1–0
1–0
Copa Centenario de Armenia
3. 3 tháng 7 năm 1989 Estádio Fonte Nova, Salvador, Brazil  Venezuela
1–0
4–2
Cúp bóng đá Nam Mỹ 1989

Danh hiệu

[sửa | sửa mã nguồn]

Câu lạc bộ

[sửa | sửa mã nguồn]

Quốc tế

[sửa | sửa mã nguồn]

Chú thích

[sửa | sửa mã nguồn]
  1. ^ “RSSSF”.
  2. ^ a b Tim Vickery (10 tháng 2 năm 2010). “The Legacy of Rene Higuita”. BBC. Bản gốc lưu trữ ngày 20 tháng 9 năm 2014. Truy cập ngày 24 tháng 3 năm 2017.
  3. ^ Higuita returns to football[liên kết hỏng]. skyports.com. 24 tháng 3 năm 2017.
  4. ^ “Tormann René Higuita geht nicht mehr auf Torjagd”. Kleinezeitung.at. 19 tháng 1 năm 2010. Bản gốc lưu trữ ngày 15 tháng 5 năm 2013. Truy cập ngày 30 tháng 6 năm 2014.
  5. ^ Essential Soccer Skills, p. 125
  6. ^ Soccer: The Ultimate Guide, p. 26
  7. ^ Trên Sky Sports 1's Goals vào chủ nhật, 29 tháng 10 năm 2006 tại 1246 GMT, Jamie Redknapp nói rằng đó là một đường chuyền chứ không phải cú sút.
  8. ^ Rene Higuita: El Loco. “Rene Higuita: El Loco”. ESPN. Truy cập ngày 22 tháng 3 năm 2017.
  9. ^ “100 Greatest sporting moments – results”. Channel 4. Truy cập ngày 22 tháng 3 năm 2017.
  10. ^ Khang Chi (22 tháng 7 năm 2008). "Cú đá bò cạp" của Higuita: Cú chơi bóng hay nhất trong lịch sử bóng đá thế giới”. Thể thao văn hóa. Truy cập ngày 22 tháng 3 năm 2017.
  11. ^ Shaw, Phil (16 tháng 2 năm 1998). “Schmeichel slices into fixture”. The Independent.
  12. ^ “Colombia 'scorpion kick' keeper Higuita runs for mayor”. BBC News. 19 tháng 3 năm 2011.
  13. ^ “Legends”. Golden Foot. Bản gốc lưu trữ ngày 25 tháng 9 năm 2015. Truy cập ngày 23 tháng 9 năm 2015.

Liên kết ngoài

[sửa | sửa mã nguồn]