Bước tới nội dung

Qeqqata

66°30′B 48°00′T / 66,5°B 48°T / 66.500; -48.000
Bách khoa toàn thư mở Wikipedia
Qeqqata
Qeqqata Kommunia
—  Khu tự quản  —
Theo chiều kim đồng hồ từ bên trái: Eo biển Davis, Sisimiut, Sân bay Kangerlussuaq, Đảo Sermersut
Hiệu kỳ của Qeqqata
Hiệu kỳ

Huy hiệu
Vị trí khu tự quản Qeqqata tại Greenland
Vị trí khu tự quản Qeqqata tại Greenland
Qeqqata trên bản đồ Thế giới
Qeqqata
Qeqqata
Tọa độ (Qeqqata Commune): 66°30′B 48°00′T / 66,5°B 48°T / 66.500; -48.000
Quốc giaVương quốc Đan Mạch
Quốc gia cấu thành Greenland
Thành lập1 tháng 1 năm 2009
Thủ phủ khu tự quảnSisimiut
Chính quyền[1]
 • Thị trưởngPaneeraq Olsen
Diện tích[2]
 • Tổng cộng115.500 km2 (44.595 mi2)
Dân số (2010)[2]
 • Tổng cộng9.677
 • Mật độ0,217/km2 (560/mi2)
Mã ISO 3166GL-QE
Websiteqeqqata.gl

Qeqqata (tiếng Greenland:Qeqqata Kommunia) là một khu tự quản mới được thành lập tại miền tây Greenland, quốc gia cấu thành thuộc vương quốc Đan Mạch, từ ngày 1 tháng 1 năm 2009. Khu tự quản được đặt tên theo vị trí nằm tại phần giữa miền tây của đảo quốc.[3] Its population is 9,677 as of January 2010.[2] Thủ phủ của khu tự quản là Sisimiut (trước đây gọi là Holsteinsborg). Khu tự quản gồm có khu vực chưa được hợp nhất trước đây là Kangerlussuaq, cũng như hai khu tự quản trước đó tại miền tây Greenland là Maniitsoq và Sisimiut.

Địa lý

[sửa | sửa mã nguồn]

Tại phía đông và phía nam, khu tự quản nằm sát với Sermersooq, mặc dù các điểm định cư và giao thương chủ yếu tập trung dọc theo bờ biển. Ở phía bắc, khu tự quản giáp với Qaasuitsup. Vùng nước tại bờ biển phía tây thuộc eo biển Davis, chia tách Greenland với Đảo Baffin. Với diện tích 115.500 km2 (44.594,8 dặm vuông Anh) đây là khu tự quản nhoe thứ hai tại Greenland sau Kujalleq.

Các điểm định cư

[sửa | sửa mã nguồn]

Tham khảo

[sửa | sửa mã nguồn]
  1. ^ Qeqqata Municipality Lưu trữ 2012-07-15 tại Archive.today (tiếng Greenland)
  2. ^ a b c Statistics Greenland, Greenland in Figures, 2010
  3. ^ “Qeqqata Kommunia, municipal page”. Bản gốc lưu trữ ngày 6 tháng 8 năm 2020. Truy cập ngày 31 tháng 10 năm 2011.