Phêrô Maria Phạm Ngọc Chi

Bách khoa toàn thư mở Wikipedia
Giám mục
 
Phêrô Maria Phạm Ngọc Chi
Giám mục Tiên khởi Giáo phận Đà Nẵng
(1963–1988)
Giáo hộiCông giáo Rôma
Chức vụ chính yếu
Giám mục chính tòa Tiên khởi
Giáo phận Đà Nẵng
Giáo tỉnhGiáo tỉnh Huế
TòaGiáo phận Đà Nẵng
Bổ nhiệmNgày 18 tháng 1 năm 1963
Hết nhiệmNgày 21 tháng 1 năm 1988
Tiền nhiệmTiên khởi
Kế nhiệmPhanxicô Xaviê Nguyễn Quang Sách
Giám mục chính tòa
Giáo phận Qui Nhơn
Giáo tỉnhGiáo tỉnh Huế
TòaGiáo phận Qui Nhơn
Bổ nhiệmNgày 24 tháng 11 năm 1960
Hết nhiệmNgày 18 tháng 1 năm 1963
Tiền nhiệmChức vụ được thiết lập
Paul Raymond Marie Marcel Piquet Lợi
Đại diện Tông tòa Qui Nhơn
Kế nhiệmĐa Minh Hoàng Văn Đoàn
Đại diện Tông tòa
Địa phận Bùi Chu
TòaHiệu tòa Sozopolis in Haemimonto
Bổ nhiệmNgày 3 tháng 2 năm 1950
Hết nhiệmNgày 24 tháng 11 năm 1960
Tiền nhiệmĐa Minh Maria Hồ Ngọc Cẩn
Kế nhiệmChức vụ bị bãi bỏ
Giuse Maria Phạm Năng Tĩnh
Giám mục Chính tòa Bùi Chu
Giám quản Tông Tòa
Địa phận Qui Nhơn
Hết nhiệmNgày 24 tháng 11 năm 1960
Tiền nhiệmPaul Raymond Marie Marcel Piquet Lợi
Kế nhiệmChức vụ bị bãi bỏ
Đa Minh Hoàng Văn Đoàn
Giám mục Chính tòa Qui Nhơn
Hội đồng Giám mục
Phó Chủ tịch
Hội đồng Giám mục Việt Nam
Tựu nhiệmTháng 1 năm 1968
Hết nhiệmKhông rõ
(1977?)
Tiền nhiệmTiên khởi
Kế nhiệmPhilipphê Nguyễn Kim Điền
Phaolô Nguyễn Văn Bình
Các chức khácGiám mục Hiệu tòa Sozopolis in Haemimonto (1950–1960)
Truyền chức
Thụ phong Phó tếNgày 23 tháng 12 năm 1933
Thụ phong Linh mụcNgày 23 tháng 12 năm 1933
Tấn phongNgày 4 tháng 8 năm 1950
Thông tin cá nhân
Sinh(1909-05-14)14 tháng 5 năm 1909
Ninh Bình, Bắc Kỳ, Liên bang Đông Dương
Mất21 tháng 1 năm 1988(1988-01-21) (78 tuổi)
Duy Xuyên, Quảng Nam, Việt Nam
Nơi an tángLinh địa Trà Kiệu
Quốc tịch Việt Nam
Khẩu hiệu"Vâng lời Thầy con thả lưới"
Cách xưng hô với
Phêrô Maria Phạm Ngọc Chi
Danh hiệuĐức Giám mục
Trang trọngĐức Giám mục, Đức Cha
Thân mậtCha
Khẩu hiệuIn verbo Tuo laxabo rete
TòaGiáo phận Đà Nẵng
Giáo phận Qui Nhơn

Phêrô Maria Phạm Ngọc Chi (14 tháng 5 năm 1909 – 21 tháng 1 năm 1988) là một giám mục Công giáo Rôma người Việt Nam. Ông là Giám mục tiên khởi của Giáo phận Qui NhơnGiáo phận Đà Nẵng. Trước đó, ông cũng là Đại diện Tông Tòa Hạt Đại diện Tông Tòa Bùi Chu. Khẩu hiệu Giám mục của ông là "Vâng lời Thầy, con thả lưới".

Là một người có quan điểm chống Cộng, ông đã có những hoạt động tôn giáo, chính trị phức tạp trong khuôn khổ Chiến tranh Đông Dương.

Thân thế và tu học[sửa | sửa mã nguồn]

Phạm Ngọc Chi sinh ngày 14 tháng 5 năm 1909 trong một gia đình Công giáo đạo đức và có nhiều người con tại xứ Tôn Đạo, tại huyện Kim Sơn, tỉnh Ninh Bình.[1][2] Ông có một người cháu là linh mục Phát, theo dòng Chúa Cứu Thế.[3]

Năm mười một tuổi, cậu bé Chi được linh mục Clément Pléneau Kim (MEP) cho nhập trường thử Ba Làng. Sau một năm, cậu được cho theo học tại Tiểu chủng viện Phúc Nhạc (Yên Khánh, Ninh Bình). Năm 1927, chủng sinh Chi tốt nghiệp Tiểu chủng viện và được Giám mục Alexandre Marcou Thành chọn đi du học tại Trường Truyền giáo Rôma.[1]

Thời kỳ linh mục[sửa | sửa mã nguồn]

Phó tế Phạm Ngọc Chi được thụ phong chức linh mục ngày 23 tháng 12 năm 1933 tại Thánh đường Gioan Laterano, do Hồng y Marchelli Selvaggiani chủ sự. Tân linh mục Phạm Ngọc Chi tiếp tục nội trú tại trường cũ của mình, và theo họci Đại học Apollinaire và tốt nghiệp các văn bằng Tiến sĩ Triết học, Cử nhân Thần học và Cử nhân Giáo luật. Năm 1935, ông nghiên cứu tại Đại học Công giáo Paris.[1]

Năm 1936, linh mục Phạm Ngọc Chi quay trở về Việt Nam và nhận chức giáo sư Đại chủng viện Phát Diệm, theo lời mời của Giám mục Gioan Baotixita Nguyễn Bá Tòng.[1] Năm 1944, ông được cử làm Phó giám đốc của Đại chủng viện Phát Diệm. Năm 1945, ông trở thành cố vấn của tân Giám mục Phát Diệm Lê Hữu Từ trong các vấn đề luật pháp và chính trị và giữ vai trò này cho đến năm 1950.[4]

Năm 1946, Giám mục Tađêô Lê Hữu Từ bổ nhiệm ông làm Chánh án Tòa án Hôn phối Địa phận đồng thời vào Hội đồng Cố vấn Địa phận.[1] Ông đã từ chối sự trúng cử Đại biểu quốc hội. Năm 1947, linh mục Chi được chọn làm Giám đốc Đại chủng viện Phát Diệm.[4]

Dưới tác động từ thông điệp của Giáo hoàng Piô XI, cũng như Giám mục Lê Hữu Từ, ông kịch liệt chống đối những người Cộng sản. Năm 1946, ông được Hội đồng Địa phận Phát Diệm đề cử ra tranh cử Quốc hội Việt Nam Dân chủ Cộng hòa và được công bố trúng cử sau khi có thư xác nhận từ chính phủ tại Hà Nội nhưng ông quyết định khước từ.

Cùng với Giám mục Từ, ông đã có sự tham gia rất lớn trong việc hình thành những đội vũ trang Tự vệ Công giáo, xây dựng các giáo khu Phát Diệm, sau đó là Bùi Chu, trở thành những khu vực tự trị với chính quyền Việt Nam Dân chủ Cộng hòa. Theo linh mục Trần Tam Tỉnh, các lực lượng tự vệ này bị cho là "vượt xa tư cách gọi là chỉ để tự vệ khi bị cộng sản tấn công, bởi vì nó tung ra các hoạt động chủ yếu là hành quân càn quét, có khi bao trùm cả vùng, có lúc chỉ ở địa phương nhỏ." [5]

Năm 1950, người Pháp đã kiểm soát được phần lớn Đông Dương. Tuy nhiên, họ vẫn để giáo khu Bùi Chu–Phát Diệm được giữ quyền tự trị với những điều kiện thỏa hiệp không chống Pháp và nhận trang bị vũ khí của người Pháp để vũ trang cho giáo dân chống Việt Minh.

Thời kỳ Giám mục[sửa | sửa mã nguồn]

Giám mục Bùi Chu[sửa | sửa mã nguồn]

Ngày 3 tháng 2 năm 1950, Giáo hoàng Piô XII bổ nhiệm linh mục Phạm Ngọc Chi chức Giám mục hiệu tòa Sozopolis và Đại diện Tông tòa Hạt Đại diện Tông Tòa Bùi Chu. Giám mục Tân cử nhận giáo phận ngày 21 tháng 3 cùng năm. Lễ tấn phong đã diễn ra vào ngày 4 tháng 8[gc 1] năm 1950 tại Nhà thờ Chính tòa Bùi Chu.[6][4] Chủ phong trong nghi thức truyền chức là Giám mục Lê Hữu Từ, trong khi hai giám mục Phêrô Máctinô Ngô Đình ThụcSantos Ubierna Ninh đóng vai trò phụ phong.[6] Tân giám mục chọn cho mình khẩu hiệu: Vâng lời Thầy, con thả lưới.[7] Giám mục Chi là Giám mục Việt Nam thứ sáu kể từ khi Việt Nam có giám mục bản xứ đầu tiên vào năm 1933.[8]

Cuối tháng 11 năm 1951, Giám mục Phạm Ngọc Chi tham gia cuộc họp của các giám mục Đông Dương và cùng với bốn Giám mục Việt Nam khác (Giám mục Lê Hữu Từ, Trịnh Như Khuê, Hoàng Văn Đoàn và Ngô Đình Thục), ký tên vào Thư Chung năm 1951.[9]

Giám mục Chi tiến hành tập trung cho việc truyền giáo. Ông cho thiết lập Dòng nữ Đa Minh Bùi Chu (1951) và Dòng Đức Mẹ Đồng Công (1953). Ông cũng cho mời các tu sĩ từ Hội Truyền giáo Bỉ (S.A.M) và tu sĩ Dòng Gioan Thiên Chúa.[6]

Đặc trách Di dân và Công giáo Tiến Hành[sửa | sửa mã nguồn]

Với phong trào di cư vào năm 1954, Giám mục Phạm Ngọc Chi nhận được thư từ Khâm sứ Tòa Thánh John Dooley ủy thác quản lý hàng giáo sĩ di cư. Ông cũng được Giám mục Jean Cassaigne Sanh, Đại diện Tông Tòa Sài Gòn ủy thác cho việc quản lý các di dân thuộc về [lãnh thổ giáo luật] Địa phận Sài Gòn Đáp ứng các yêu cầu trên, Giám mục Phạm Ngọc Chi cho thiết lập Uỷ ban Hỗ trợ Định cư (hoạt động cho đến ngày 31 tháng 12 năm 1956) với nhiều kết quả: 300 nhà thờ, nhiều trường học và bệnh viện đã được xây dựng tại các trại di cư.[6] Kết quả của sự tích cực của Giám mục Chi là các giáo xứ toàn tòng có gốc gác giáo dân miền Bắc di cư tại các vùng Gò Vấp, Hóc Môn,... thuộc Tổng giáo phận Sài Gòn và các giáo xứ dọc các kênh vùng Cái Sắn, giáo phận Long Xuyên. Giám mục Chi đã giúp hỗ trợ về cả tinh thần và vật chất cho các giáo dân di cư đến các trại định cư tại miền Trung, Tây Nguyên và miền Nam Việt Nam, mà nay hình thành nên các giáo xứ lớn.[2]

Sau khi hoàn tất phần việc và giải thể Uỷ ban Hỗ trợ Định cư, do sự đề cử của Thanh tra Tông Tòa tại Việt Nam Cộng hòa[cần dẫn nguồn] Giuseppe Caprio, Giám mục Phạm Ngọc Chi được Tòa Thánh đặt chuyên trách về Công giáo Tiến hành Việt Nam, với chức danh Đặc uỷ Tông Tòa.[10][11] Trên cương vị này, ông đã triệu tập hội nghị trên toàn quốc (Việt Nam Cộng hòa), soạn thảo các quy định, nghiên cứu các đoàn thể và phong trào, cũng như thiết lập tuần báo "Việt Tiến". Giám mục Chi cũng đã cho thiết lập Trụ sở Huấn luyện Công giáo Tiến hành tại Đà Lạt, cũng như xúc tiến đề nghị thành lập Trung tâm Công giáo Việt Nam tại Sài Gòn.[10] Trung tâm này được tài trợ bởi Tòa Thánh Vatican, Công giáo Hoa Kỳ và Tây Đức, được khánh thành vào ngày 18 tháng 1 năm 1957, và Giám mục Chi trở thành Giám đốc Tiên khởi của trung tâm.[12] Trong thập niên 1960, các đoàn thể Công giáo Tiến hành đã được tổ chức cách quy củ tại các giáo phận miền Nam Việt Nam.[2]

Giám mục Qui Nhơn[sửa | sửa mã nguồn]

Ngày 5 tháng 7 năm 1957, Tòa Thánh bổ nhiệm ông làm Đại diện Tông Tòa Hạt Đại diện Tông Tòa Qui Nhơn. Cuối tháng 8 cùng năm, Giám mục Chi phân chia tân địa phận của mình thành sáu giáo hạt. Thời kỳ làm Giám mục của ông tại Qui Nhơn có việc tổ chức Đại hội Thánh Mẫu Trà Kiệu, và thiết lập ba trường trung học Đà Nẵng, Qui Nhơn và Tuy Hòa. Địa phận Qui Nhơn, theo số liệu năm 1958 có 115 linh mục, 16 đại chủng sinh, 156 tiểu chủng sinh.[10]

Ngày 24 tháng 11 năm 1960, Giám mục Phạm Ngọc Chi trở thành Giám mục chính tòa Qui Nhơn khi giáo phận này được thành lập.

Thời gian Giám mục Chi làm Giám mục Qui Nhơn, việc truyền giáo và gia nhập đạo Công giáo đạt được nhiều kết quả tích cực.[11]

Giám mục Đà Nẵng[sửa | sửa mã nguồn]

Trước biến cố năm 1975

Giáo hoàng Gioan XXIII ký sắc lệnh tách Đà Nẵng ra khỏi Giáo phận Qui Nhơn và bổ nhiệm Giám mục Chi làm giám mục tiên khởi của giáo phận mới vào ngày 18 tháng 1 năm 1963. Tân giám mục Đà Nẵng chính thức nhận tân giáo phận vào ngày 1 tháng 5 năm 1963.[10] Quyết định nhận làm giám mục quản lý một giáo phận mới hình thành là một phần của giáo phận mình đang quản lý đã làm nhiều quan chức Tòa Thánh Vatican cảm kích và thán phục.[2] Chủ sự lễ nhậm chức của Tân giám mục Tiên khởi Đà Nẵng là Khâm sứ Tòa Thánh Salvatore Asta với lễ nhận sắc và nhậm chức diễn ra vào chiều ngày 1 tháng 5. Cá nhân tân giám mục cho rằng Đà Nẵng được tách thành một giáo phận riêng lẻ vì lịch sử vẻ vang và tương lai đầy hứa hẹn [trong Giáo hội].[11] Giáo dân và các đoàn thể Công giáo đã đến sân bay Đà Nẵng đón tân giám mục. Cùng đi máy bay từ Qui Nhơn đến Đà Nẵng, ngoài Giám mục Chi và Tổng giám mục Asta còn có hai tổng giám mục và năm giám mục khác.[4] Số lượng linh mục của tân giáo phận là 40.[11] Chính Giám mục Chi đã thiết lập xây dựng các cơ sở tại Tòa giám mục Đà Nẵng. Trong giai đoạn làm Giám mục Đà Nẵng, Giám mục Chi tham dự Công đồng Vatican II với tư cách nghị phụ.[10] Giám mục Chi là một trong số 17 giám mục Việt Nam tham dự Công đồng này.[13]

Giáo phận Đà Nẵng do Giám mục Chi quản lý chính thức thiết lập Bệnh viện An Bình, Phú Thượng do các tu sĩ Dòng Gioan Thiên Chúa đảm nhận. Về đào tạo, Giáo phận thiết lập Tiểu chủng viện Thánh Gioan (1970), Phân khoa Triết học Đại chủng viện Xuân Bích Hòa Bình (1974).[10] Ngoài ra, Giám mục Chi cho xây dựng Nhà hưu dưỡng Linh mục, Ðại Chủng viện Hòa Bình và Trung tâm Công giáo Tiến Hành bênh cạnh nhà thờ chính tòa Đà Nẵng. Giám mục Chi cũng cho phép hoặc mời các nhà dòng đến truyền giáo trong Giáo phận, bên cạnh hai dòng nữ Thánh Phaolô và Mến Thánh Giá Quy Nhơn trong lãnh thổ địa phận trước năm 1963.[11]

Giám mục Phạm Ngọc Chi được chọn làm Phó chủ tịch, kiêm Thủ quỹ Hội đồng Giám mục miền Nam Việt Nam trong phiên họp đầu tháng 1 năm 1968 của Hội đồng Giám mục Việt Nam tại Tòa Tổng giám mục Sài Gòn.[14] Nhiệm kỳ được xác định là bốn năm, 1967-1971.[15] Ông tái đắc cử chức Phó Chủ tịch, kiêm Thủ quỹ Hội đồng trong phiên họp đầu tháng 1 năm 1971 tại Trung tâm Công giáo Sài Gòn. Giám mục Chi cũng là Uỷ viên Uỷ ban Truyền bá Phúc Âm, một trong bốn Uỷ ban của Hội đồng Giám mục nhiệm kỳ 1971-1974.[16] Ban Thường vụ bổ sung thêm hai giám mục vào năm 1974, Giám mục Chi vẫn thuộc về Ban Thường vụ nhưng không rõ chức danh.[15]

Giám mục Phạm Ngọc Chi cùng Tổng giám mục Phaolô Nguyễn Văn Bình tham dự Thượng Hội đồng Giám mục lần thứ II vào năm 1969 tại Rôma.[15] Giám mục Chi cũng góp mặt trong phái đoàn của Hội đồng Giám mục Việt Nam đi dự Hội nghị Hội đồng Giám mục Á châu vào cuối tháng 11 năm 1970 tại Manila, Philippines.[17]

Sau biến cố năm 1975

Từ năm 1975 cho đến khi qua đời, Giám mục Phạm Ngọc Chi hầu như không xuất hiện cách công khai, kể các cuộc họp Hội đồng Giám mục Việt Nam.[2]Với biến cố năm 1975, Giám mục Phạm Ngọc Chi đã chọn và tấn phong chức Giám mục phó cho linh mục Phanxicô Xaviê Nguyễn Quang Sách vào ngày 6 tháng 6 năm 1975.[18] Từ con số 40 linh mục thuộc giáo phận Đà Nẵng vào năm 1963, số linh mục tăng lên con số 117 vào năm 1975. Sau biến cố năm 1975, giáo phận còn lại khoảng 50 linh mục. Giám mục Chi cho rất nhiều linh mục đi du học cũng như khuyến khích các linh mục dưới 40 tuổi xuất ngoại, và trong mỗi phân ngành riêng biệt, ông cho ba linh mục theo học cùng một loại văn bằng để có nhân sự thay thế.[11] Ông không tham dự Đại hội Hội đồng Giám mục Việt Nam I diễn ra vào cuối tháng 4 và đầu tháng 5 năm 1980. Cùng vắng mặt còn có bốn giám mục khác.[19]

Giám mục Phạm Ngọc Chi phải học tập cải tạo, và ông học một mình cùng Phó Trưởng Ty Công An Quảng Nam - Đà Nẵng, ông Lê Lực. Trong tháng đầu tiên, Giám mục Chi học tập mỗi ngày tám tiếng, đến nửa đầu tháng hai, mỗi ngày còn bốn tiếng, và hai tuần cuối cùng, mỗi ngày hai tiếng. Sau khi hoàn thành việc học tập cải tạo, ông Lực thưởng Giám mục Chi một phiếu mua xăng, đồng thời lưu ý rằng do giáo dân còn cần đến Giám mục Chi và vì tuổi tác của giám mục, vì khoan hồng và nhân đạo, Nhà nước không bắt giữ ông. Ông Lực cũng lưu ý rằng việc Giám mục Chi sau này có bị bắt giữ hay không tùy thuộc vào thái độ của ông, vì Tội của ông thì nhiều hơn cát ngoài biển.[4]

Vào mùa hè năm 1984, các linh mục [Đà Nẵng] biết ý định về nghỉ dưỡng tại Phú Thượng của Giám mục Phạm Ngọc Chi. Tuy vậy, đầu tháng 7 năm 1984, linh mục xứ Trà Kiệu được chính Giám mục Chi hỏi ý về ý định của ông về hưu dưỡng tại Trà Kiệu theo lời khuyên của nhiều người. Sau cuộc gặp này một tuần, Giám mục Chi chính thức đến an dưỡng tại Trà Kiệu.[3] Theo thông tin từ linh mục Hoàng Xuân Nghiêm, ngày 10 tháng 7 năm 1984, Tòa giám mục bị công an tỉnh bất ngờ bao vây và phong tỏa. Phòng Giám mục và linh mục quản lý bị kiểm tra. Một ngày sau, Giám mục Chi được yêu cầu đến làm việc và theo linh mục Nghiêm, bị áp lực phải nhượng lại Tòa giám mục, Tiểu chủng viện Gioan và Tu viện Gioan Thiên Chúa lại cho Nhà nước. Nhà nước cũng hứa sẽ xây một tòa nhà Tòa giám mục khác thay cho tòa nhà cũ. Cũng theo linh mục Nghiêm, cho đến tháng 1 năm 1988, vẫn không được thực hiện. Giám mục Phạm Ngọc Chi bị "giam lỏng" tại Trà Kiệu từ ngày 20 tháng 7 cho đến khi qua đời, cũng theo linh mục Nghiêm.[4] Theo linh mục Thăng, vào ngày di chuyển đến Trà Kiệu, Giám mục Chi rất rạng rỡ, và bản thân giám mục đã được đưa đến thăm viếng hai cộng đoàn nữ tu. Tuy vậy, chỉ sau đó một tuần, tình hình Giám mục Chi đổi khác. Sức khỏe Giám mục Chi thất thường, từng nhiều lần lâm bệnh nặng, cũng như từng nhập viện điều trị vào giữa tháng 10 năm 1985.[3]

Theo thông tin từ Giáo phận Đà Nẵng, Giám mục Chi phải chuyển đến lưu trú tại Nhà xứ Giáo xứ chính tòa một thời gian ngắn, trước khi về an dưỡng tại Giáo xứ Trung tâm Thánh Mẫu Trà Kiệu cho tới khi qua đời. Việc cai quản giáo phận lại cho Giám mục phó Phanxicô Xaviê Nguyễn Quang Sách.[20] Ông chính thức về an dưỡng tại Trung tâm Thánh Mẫu Trà Kiệu từ ngày 10 tháng 7 năm 1984.[18]

Qua đời

Ngày kỷ niệm 25 năm thành lập giáo phận Đà Nẵng, 18 tháng 1 năm 1988, sức khỏe Giám mục Phạm Ngọc Chi chuyển biến xấu và rơi vào tình trạng hôn mê. Giám mục Chi qua đời ngày 21 tháng 1 năm 1988. Vào ngày Giám mục Chi qua đời, các giám mục khác thuộc miền Trung Việt Nam có mặt vào lúc ông lâm chung, do có giấy triệu tập tham gia một cuộc họp tại Hà Nội, và các giám mục này phải đến Đà Nẵng nhận vé máy bay để bay đến Hà Nội. Linh mục Quản xứ Trà Kiệu Nguyễn Trường Thăng được một cán bộ công an đề xuất yêu cầu bình viện Duy Xuyên truyền oxy cho Giám mục Chi. Được truyền oxy vào khoảng 12 giờ, Giám mục Chi qua đời vào lúc 14 giờ 25 phút.[3]

Thi hài cố giám mục được đưa đến tầng trệt nhà thờ Trà Kiệu để giáo dân đến viếng. Giám mục Phaolô Huỳnh Đông Các chủ sự nghi thức tẫn liệm. Lễ an táng cố giám mục được cử hành vào ngày 23 tháng 1, với chủ tế là Giám mục kế vị Nguyễn Quang Sách, đồng tế có Tổng giám mục Philipphê Nguyễn Kim Điền và ba giám mục các giáo phận miền Trung khác.[3] Ông được chôn cất cạnh nhà thờ Trà Kiệu, trong nghĩa trang các linh mục. Việc đề nghị được xin quay video [tang lễ] không được chấp nhận, trong khi việc chụp ảnh chỉ được thực hiện bởi các hiệu ảnh có giấy phép. Phim màu [tang lễ] sau đó chỉ được in một số tấm.[3]

Trong chúc thư của Giám mục Chi có đoạn: "Đối với những người thù ghét tôi, làm khổ tôi, nếu có, tôi không có buồn giận ai cả. Trái lại, tôi xin Chúa chúc lành cho họ. Họ làm như thế là làm cho tôi, vì tôi có dịp lập công, đền tội, nhất là trong những ngày sau hết đời tôi. Về nơi chôn cất thì ở đâu cũng được. Xác đất vật hèn: rồi chúng ta sẽ ra tro và bụi hết. Đến đây tôi xin để lại cho mọi người một ý tưởng sau hết mà tôi đã nói đi nói lại nhiều lần: "Vanitas Vanitatum et omnis vanitas: Phù vân nối tiếp phù vân, mọi sự đều là phù vân. Propter amare Deum et Illi Soli servire: trừ sự kính mến Đức Chúa Trời và làm tôi một mình Người"[21]

Trong đời sống mục vụ cá nhân, Giám mục Chi nổi bật ở hai đặc điểm: sự đúng giờ và sự cố gắng trả lời mọi thư từ liên lạc. Việc giữ mọi liên lạc và trả lời tất cả thư từ được Giám mục Chi nhắc nhớ linh mục quản lý của mình nhiều lần.[11]

Quan điểm chính trị[sửa | sửa mã nguồn]

Giám mục Chi thường bày tỏ sự ủng hộ đối với vấn đề quân đội Hoa Kỳ can thiệp trong Chiến tranh Việt Nam. Năm 1967, ông đã gửi thư phản đối Hồng y Cardin khi hồng y bày tỏ ý muốn yêu cầu phía Hoa Kỳ tôn trọng quyền dân tộc tự quyết của Việt Nam và rút quân khỏi Việt Nam.[22] Trong một chuyến công du Hoa Kỳ tháng 12 năm 1969, ông tiếp tục bày tỏ sự ủng hộ đối với sách lược Việt Nam hóa chiến tranh của Nixon và khước từ sự liên hiệp với phía Việt Nam Dân chủ Cộng hòa.[23]

Tác phẩm[sửa | sửa mã nguồn]

Giám mục Phạm Ngọc Chi đã biên soạn các sách:[6]

  • Phúc Âm dẫn giải (hai tập), xuất bản năm 1952, thuộc Tủ sách Liên giáo phận.
  • Cha Đa Miêng, Tông đồ người hủi" (sách dịch), xuất bản năm 1957, thuộc Tủ sách Ra khơi.

Tông truyền[sửa | sửa mã nguồn]

Giám mục Phêrô Maria Phạm Ngọc Chi được tấn phong giám mục năm 1950, thời Giáo hoàng Piô XII, bởi:[24]

Giám mục Phêrô Maria Phạm Ngọc Chi đóng vai trò chủ phong trong nghi thức truyền chức cho giám mục:[24]

Giám mục Phêrô Maria Phạm Ngọc Chi đóng vai trò phụ phong trong nghi thức truyền chức cho các giám mục:[24]

Tóm tắt chức vụ[sửa | sửa mã nguồn]

Danh hiệu Công giáo
Tiền nhiệm:
Đa Minh Maria Hồ Ngọc Cẩn
Đại diện Tông Tòa
Hạt Đại diện Tông Tòa Bùi Chu

1950–1960
Kế nhiệm:
Giuse Maria Phạm Năng Tĩnh
Tiền nhiệm:
Paul Raymond Marie Marcel Piquet Lợi
Giám mục chính tòa
Giáo phận Qui Nhơn

1960–1963
Kế nhiệm:
Đa Minh Hoàng Văn Đoàn
Tiền nhiệm:
Tiên khởi
Giám mục chính tòa
Giáo phận Đà Nẵng

1963–1988
Kế nhiệm:
Phanxicô Xaviê Nguyễn Quang Sách
Tiền nhiệm:
Tiên khởi
Phó Chủ tịch
Hội đồng Giám mục Việt Nam

1968–1974(?)
Kế nhiệm:
Philipphê Nguyễn Kim Điền
Phaolô Nguyễn Văn Bình
Tiền nhiệm:
Tiên khởi
Giám đốc
Trung tâm Công giáo Việt Nam

1968–1971
Kế nhiệm:
Không rõ
Tiền nhiệm:
Tiên khởi
Uỷ viên Uỷ ban Truyền bá Phúc Âm
Hội đồng Giám mục Việt Nam

1971–1974
Kế nhiệm:
Chức vụ bị hủy bỏ
Tiền nhiệm:
Tiên khởi
Uỷ viên Ban Thường vụ
Hội đồng Giám mục Việt Nam

1974–1977
Kế nhiệm:
Chức vụ bị hủy bỏ

Thứ tự bổ nhiệm - tấn phong giám mục[sửa | sửa mã nguồn]

Tiền nhiệm:
Đợt bổ nhiệm Giám mục người Việt lần V
Tađêô Lê Hữu Từ
14 tháng 6 năm 1945
Đợt bổ nhiệm Giám mục người Việt lần VI
Phêrô Maria Phạm Ngọc Chi

3 tháng 2 năm 1950
Kế nhiệm:
Đợt bổ nhiệm Giám mục người Việt lần VII
Đa Minh Hoàng Văn Đoàn
12 tháng 3 năm 1950
Tiền nhiệm:
Giám mục người Việt thứ 5 được tấn phong
Tađêô Lê Hữu Từ
29 tháng 10 năm 1945
Giám mục người Việt thứ 6 được tấn phong
Phêrô Maria Phạm Ngọc Chi

4 tháng 8 năm 1950
Kế nhiệm:
Giám mục người Việt thứ 7 được tấn phong
Giuse Maria Trịnh Như Khuê
15 tháng 8 năm 1950

Ghi chú[sửa | sửa mã nguồn]

  1. ^ Nhiều nguồn bác bỏ thông tin lễ tấn phong Giám mục được cử hành ngày 15 tháng 8 năm 1950 được ghi trong nguồn sách của Trần Anh Dũng.

Chú thích[sửa | sửa mã nguồn]

  1. ^ a b c d e Trần Anh Dũng 2009, tr. 416
  2. ^ a b c d e “CHÂN DUNG LINH MỤC VIỆT NAM: ĐỨC CHA PHÊRÔ MARIA PHẠM NGỌC CHI”. Hội đồng Giám mục Việt Nam. ngày 8 tháng 10 năm 2009. Truy cập ngày 28 tháng 5 năm 2024.
  3. ^ a b c d e f Lm Antôn Nguyễn Trường Thăng (ngày 1 tháng 9 năm 2012). “NHỮNG NGÀY CUỐI ĐỜI CỦA ĐỨC CHA PHÊRÔ MARIA PHẠM NGỌC CHI”. Linh địa Trà Kiệu. Truy cập ngày 28 tháng 5 năm 2024.
  4. ^ a b c d e f Linh mục Hoàng Xuân Nghiêm (ngày 23 tháng 1 năm 1988). “Ðôi giòng tiểu sử của Ðức cố Giám MụcPhêrô Maria Phạm Ngọc Chi”. Truyền giáo Việt Nam tại Á Châu. Truy cập ngày 27 tháng 5 năm 2024.
  5. ^ Trần Tam Tỉnh. Thập Giá và Lưỡi Gươm. Chương II: Binh Thánh giá, nạn nhân của đạo quân Thánh giá. Mục 5: Cuộc thánh chiến
  6. ^ a b c d e Trần Anh Dũng 2009, tr. 417
  7. ^ Trần Anh Dũng 2001, tr. 176
  8. ^ Trần Anh Dũng 2001, tr. 170
  9. ^ UB Loan Báo Tin Mừng/ HĐGMVN (ngày 1 tháng 12 năm 2010). “Giáo hội Công giáo Việt Nam và nỗ lực truyền giáo 50 năm qua (1)”. Tổng giáo phận Thành phố Hồ Chí Minh. Truy cập ngày 27 tháng 5 năm 2024.
  10. ^ a b c d e f Trần Anh Dũng 2009, tr. 418
  11. ^ a b c d e f g “Kỷ niệm 100 năm ngày sinh của Ðức cố Giám Mục Phêrô Maria Phạm Ngọc Chi, Giám mục tiên khởi Giáo phận Ðà Nẵng”. Truyền giáo Việt Nam tại Á Châu. Truy cập ngày 27 tháng 5 năm 2024.
  12. ^ Trần Anh Dũng 2001, tr. 23
  13. ^ Trần Anh Dũng 2009, tr. 277
  14. ^ Trần Anh Dũng 2009, tr. 280-281
  15. ^ a b c Phanxicô X. Đào Trung Hiệu OP (ngày 18 tháng 3 năm 2021). “TỎA SÁNG NGỌC QUÝ NƯỚC TRỜI – NHỮNG BƯỚC THĂNG TRẦM GIÁO HỘI VIỆT NAM 60 NĂM”. Hội đồng Giám mục Việt Nam. Lưu trữ bản gốc ngày 18 tháng 3 năm 2021. Truy cập ngày 14 tháng 4 năm 2024.
  16. ^ Trần Anh Dũng 2009, tr. 285-286
  17. ^ Trần Anh Dũng 2001, tr. 29
  18. ^ a b Trần Anh Dũng 2009, tr. 419
  19. ^ Trần Anh Dũng 2001, tr. 34
  20. ^ Lược sử Giáo phận Đà Nẵng, Nhà xuất bản Tôn Giáo, 2012.
  21. ^ “DGM Phero Maria Pham Ngoc Chi”. Bản gốc lưu trữ ngày 5 tháng 3 năm 2009.
  22. ^ Trần Tam Tỉnh. Thập Giá và Lưỡi Gươm. Chương III: Giáo hội trong cơn bão bùng. Mục 6: Giáo hội đối diện với vấn đề hòa bình
  23. ^ Trần Tam Tỉnh. Thập Giá và Lưỡi Gươm. Chương III: Giáo hội trong cơn bão bùng. Mục 7: Nỗi hăm dọa của hòa bình
  24. ^ a b c “Bishop Pierre Marie Phạm Ngọc Chi † Bishop of Ðà Nẵng, Viet Nam” [Phêrô Maria Phạm Ngọc Chi, Giám mục của Đà Nẵng, Việt Nam] (bằng tiếng Anh). Catholic Hierarchy. Truy cập ngày 25 tháng 5 năm 2024.
  25. ^ “Bishop Thaddée Anselme Lê Hữu Từ, O. Cist. † Vicar Apostolic Emeritus of Phát Diêm, Viet Nam - Titular Bishop of Daphnusia” [Giám mục Tađêô Anselmô Lê Hữu Từ, O. Cist. †, Nguyên Đại diện Tông Tòa của Phát Diệm, Việt Nam] (bằng tiếng Anh). Catholic Hierarchy. Bản gốc lưu trữ Ngày 6 tháng 7 năm 2020. Truy cập Ngày 6 tháng 7 năm 2020.
  26. ^ “Archbishop Pierre Martin Ngô Ðình Thục † Archbishop Emeritus of Huế, Viet Nam, Titular Archbishop of Bulla Regia” [Tổng giám mục Phêrô Máctinô Ngô Đình Thục, nguyên Tổng giám mục Huế, Việt Nam, Tổng giám mục Hiệu tòa Bulla Regia] (bằng tiếng Anh). Catholic Hierarchy. Lưu trữ bản gốc ngày 8 tháng 12 năm 2023. Truy cập Ngày 4 tháng 3 năm 2024.
  27. ^ “Bishop Santos Ubierna, O.P. † Vicar Apostolic of Thái Binh, Viet Nam, Titular Bishop of Lamdia” [Giám mục Santos Ubierna, O.P. † Đại diện Tông Tòa của Thái Bình, Việt Nam, Giám mục Hiệu tòa của Lamdia] (bằng tiếng Anh). Catholic Hierarchy. Truy cập ngày 25 tháng 5 năm 2024.

Thư mục[sửa | sửa mã nguồn]

Liên kết ngoài[sửa | sửa mã nguồn]