Bước tới nội dung

Pedro Pascal

Bách khoa toàn thư mở Wikipedia
Pedro Pascal
Pascal năm 2017
SinhJosé Pedro Balmaceda Pascal
2 tháng 4, 1975 (49 tuổi)
Santiago, Chile
Tên khácPedro Balmaceda
Alexander Pascal
Học vịĐại học New York (BFA)
Nghề nghiệpDiễn viên
Năm hoạt động1996–nay
Người thânLux Pascal (em gái)
Chữ ký

José Pedro Balmaceda Pascal (sinh ngày 2 tháng 4 năm 1975, nghệ danh: Pedro Pascal) là nam diễn viên người Mỹ gốc Chile. Trong sự nghiệp của mình, anh đã từng tham gia nhiều phim với các vai phụ, năm 2014, anh nổi tiếng với vai Oberyn Martell trong mùa thứ tư của sê-ri truyền hình Game of Thrones của đài HBO. Sau đó anh tham gia phim Narcos của Netflix với vai Javier Peña. Các phim điện ảnh khác mà anh đã tham gia có thể kể đến như: The Great Wall (2016), Kingsman: The Golden Circle (2017), The Equalizer 2 (2018) và Triple Frontier (2019).

Các vai Din Djarin trong The Mandalorian (2019–nay, Disney+) và Joel Miller trong The Last of Us (2023–nay, HBO) tiếp tục giúp cho nam diễn viên nổi tiếng toàn cầu. Vai Joel Miller mang về cho anh nhiều giải thưởng, bao gồm một giải Nghiệp đoàn diễn viên màn ảnh và một đề cử giải Quả cầu vàng. Ngoài ra anh cũng góp mặt trong các phim We Can Be Heroes (2020), Strange Way of Life (2023), The Wild Robot (2024). Các phim kinh phí lớn mà anh tham gia là Wonder Woman 1984 (2020) và Gladiator II (2024).

Ở lĩnh vực sân khấu, anh tham gia từ năm 1999, vở kịch Broadway đầu tiên mà anh tham gia là King Lear năm 2019, vai Edmund. Năm 2023, tờ Time liệt kê anh trong danh sách 100 người có tầm ảnh hưởng nhất thế giới.[1]

Tiểu sử

[sửa | sửa mã nguồn]

José Pedro Balmaceda Pascal sinh ngày 2 tháng 4 năm 1975 tại thành phố Santiago, Chile.[2] Cha mẹ anh là Verónica Pascal Ureta, một bác sĩ tâm lý học trẻ em, và José Balmaceda Riera, làm nghề bác sĩ phụ sản.[3][4] Bà nội anh sinh ra ở Palma de Mallorca, Tây Ban Nha.[5] Anh có một chị gái tên Javiera,[6] một em trai tên Nicolás[7] và một em gái là nữ diễn viên chuyển giới Lux Pascal.[8][9]

Khi anh được chín tháng tuổi thì cả gia đình đi tị nạn chính trị ở đại sứ quán Venezuela tại Santiago và sau đó sang Đan Mạch.[10][11] Cuối cùng, gia đình tới Mỹ và sống ở thành phố San Antonio, Texas,[12] năm anh 11 tuổi, cả nhà chuyển tới quận Cam, California.[11] Năm 1995, cha mẹ anh quay lại Chile để nuôi hai em.[13]

Anh từng theo học diễn xuất tại trường Nghệ thuật quận Cam, tốt nghiệp năm 1993, sau đó học trường Nghệ thuật Tisch của Đại học New York, tốt nghiệp năm 1997.[14][15] Sau khi mẹ mất, nam diễn viên dùng tên họ Pascal làm nghệ danh để tưởng nhớ bà.[16]

Đời tư

[sửa | sửa mã nguồn]

Pascal thành thạo tiếng Anh và tiếng Tây Ban Nha. Anh là bạn thân với nữ diễn viên Sarah Paulson kể từ khi chuyển tới New York năm 1993.[17][18]

Nam diễn viên ủng hộ em gái Lux Pascal sau khi cô công khai chuyển giới, cũng như quyền LGBT nói chung.[19][20]

Danh sách phim

[sửa | sửa mã nguồn]

Điện ảnh

[sửa | sửa mã nguồn]
Năm Tên Vai Ct
2005 Hermanas Steve
2008 I Am That Girl Noah
2011 Bản đồ định mệnh Paul De Santo
Sweet Little Lies Paulino
2015 Bloodsucking Bastards Max
Sweets Twin Peter
2016 Tử chiến Trường Thành Pero Tovar
2017 Kingsman: Tổ chức Hoàng Kim Jack Daniels/Đặc vụ Whiskey
2018 Prospect Ezra
The Equalizer 2 Dave York
If Beale Street Could Talk Pietro Alvarez
2019 Triple Frontier Franscisco "Catfish" Morales
2020 Wonder Woman 1984: Nữ thần chiến binh Maxwell Lord
2021 We Can Be Heroes Marcus Moreno Hậu kỳ
The Unbearable Weight of Massive Talent Javi Đang quay
2024 Robot hoang dã Fink Lồng tiếng
Võ sĩ giác đấu II Tướng quân Acacius
2025 Bộ tứ siêu đẳng Reed Richards

Truyền hình

[sửa | sửa mã nguồn]
Năm Tên Vai Ghi chú
2023 Những người còn sót lại Joel

Tham khảo

[sửa | sửa mã nguồn]
  1. ^ “Time 100”. Time. 13 tháng 4 năm 2023. Lưu trữ bản gốc ngày 13 tháng 4 năm 2023. Truy cập ngày 13 tháng 4 năm 2023.
  2. ^ “Pedro Pascal Profile”. Rotten Tomatoes. Rotten Tomatoes. Lưu trữ bản gốc ngày 2 tháng 4 năm 2022. Truy cập ngày 2 tháng 4 năm 2022.
  3. ^ Ito, Robert (28 tháng 3 năm 2014). “A Lethal Prince, Even if a Bit Clumsy: Pedro Pascal Becomes Red Viper on 'Game of Thrones'. The New York Times. Lưu trữ bản gốc ngày 12 tháng 11 năm 2020. Truy cập ngày 27 tháng 5 năm 2014.
  4. ^ Koblin, John (3 tháng 2 năm 2017). “Pedro Pascal: Making It at 41”. The New York Times. Lưu trữ bản gốc ngày 29 tháng 12 năm 2020. Truy cập ngày 4 tháng 7 năm 2019.
  5. ^ Palma, Redacción (21 tháng 9 năm 2017). “El pasado mallorquín del agente Peña de Narcos”. Diario de Mallorca (bằng tiếng Tây Ban Nha). Lưu trữ bản gốc ngày 30 tháng 5 năm 2023. Truy cập ngày 30 tháng 5 năm 2023.
  6. ^ "Narcos" star Pedro Pascal on the mystery of Pablo Escobar's death”. 2 tháng 9 năm 2016. Lưu trữ bản gốc ngày 29 tháng 12 năm 2020. Truy cập ngày 3 tháng 11 năm 2020 – qua YouTube.
  7. ^ Pascal, Pedro (10 tháng 4 năm 2019). “This is my brother, Nicolas”. www.instagram.com. Truy cập ngày 9 tháng 7 năm 2023.
  8. ^ “Lucas Balmaceda, el hermano del chileno de Game of Thrones que llegó a remecer Los 80”. t13.cl. 12 tháng 11 năm 2014. Lưu trữ bản gốc ngày 11 tháng 11 năm 2020. Truy cập ngày 13 tháng 1 năm 2018.
  9. ^ “Pedro Pascal Sweetly Supports His Sister Lux After She Comes Out as a Trans Woman: 'Mi Corazón'. People. 9 tháng 2 năm 2021. Lưu trữ bản gốc ngày 11 tháng 2 năm 2021. Truy cập ngày 12 tháng 2 năm 2021.
  10. ^ “The Mandalorian's Pedro Pascal Credits His Success to His Mom, Who Died Before He Became Famous”. People. 13 tháng 11 năm 2020. Lưu trữ bản gốc ngày 12 tháng 12 năm 2020. Truy cập ngày 1 tháng 1 năm 2021.
  11. ^ a b Broeske, Pat H. (28 tháng 4 năm 2014). “The Viper Prince”. Orange Coast. Lưu trữ bản gốc ngày 2 tháng 6 năm 2014. Truy cập ngày 27 tháng 5 năm 2014.
  12. ^ McIntyre, Gina (12 tháng 5 năm 2014). 'Game of Thrones': Red Viper actor Pedro Pascal hates spoilers too”. Los Angeles Times. Bản gốc lưu trữ ngày 8 tháng 9 năm 2018. Truy cập ngày 27 tháng 5 năm 2014.
  13. ^ Warner, Kara (30 tháng 10 năm 2017). “Pedro Pascal on His Roots in Chile and Breakout Stardom”. Time. Lưu trữ bản gốc ngày 1 tháng 3 năm 2024. Truy cập ngày 3 tháng 6 năm 2024.
  14. ^ Lỗi chú thích: Thẻ <ref> sai; không có nội dung trong thẻ ref có tên OrangeCoast3
  15. ^ “ETW Alumni”. New York University. Lưu trữ bản gốc ngày 19 tháng 1 năm 2021. Truy cập ngày 1 tháng 1 năm 2021.
  16. ^ Lỗi chú thích: Thẻ <ref> sai; không có nội dung trong thẻ ref có tên variety
  17. ^ Lỗi chú thích: Thẻ <ref> sai; không có nội dung trong thẻ ref có tên OrangeCoast
  18. ^ Sarah Paulson (18 tháng 9 năm 2014). “Pedro Pascal”. Lưu trữ bản gốc ngày 16 tháng 1 năm 2021. Truy cập ngày 11 tháng 2 năm 2021.
  19. ^ Ennis, Dawn. “This Is The Way 'The Mandalorian' Cast Gets Personal On Social Media”. Forbes. Lưu trữ bản gốc ngày 11 tháng 4 năm 2022. Truy cập ngày 10 tháng 4 năm 2022.
  20. ^ “Pedro Pascal Sends Love To Sister Coming Out As Transgender”. HuffPost. 10 tháng 2 năm 2021. Lưu trữ bản gốc ngày 11 tháng 4 năm 2022. Truy cập ngày 11 tháng 4 năm 2022.

Liên kết ngoài

[sửa | sửa mã nguồn]