Bước tới nội dung

Như nước pha sô cô la (phim)

Bách khoa toàn thư mở Wikipedia
Như nước pha sô cô la
Thể loạiHiện thực huyền ảo
Định dạngPhim màu
Kịch bảnLaura Esquivel (tiểu thuyết)
Đạo diễnAlfonso Arau
Nhạc phimLeo Brouwer
Quốc gia México
Ngôn ngữTiếng Tây Ban Nha
Tiếng Anh
Sản xuất
Giám chếÓscar Castillo
Nhà sản xuấtAlfonso Arau
Biên tậpCarlos Bolado
Francisco Chiu
Địa điểmAcuña
Piedras Negras
Eagle Pass
Kỹ thuật quay phimSteven Bernstein
Emmanuel Lubezki
Thời lượng123 phút
Đơn vị sản xuấtConsejo Nacional para la Cultura y las Artes (CONACULTA)
Instituto Mexicano de Cinematografía (IMCINE)
Secretaria de Turismo (ST)
Arau Films Internacional (AFI)
Cinevista
Aviacsa
Gobierno del Estado de Coahuila (GEC)
Fondo de Fomento a la Calidad Cinematográfica (FFCC)
Fonatur
Nhà phân phốiMiramax
Umbrella Entertainment
Acteurs Auteurs Associés (AAA)
Herald Film Company
Argentina Video Home
Ascot Elite Home Entertainment
C/FP Video
Editora Europa
Paramount Channel
Top Tape
Touchstone Home Video
Warner Home Video
Trình chiếu
Kênh trình chiếu tại Việt NamVTV1
Định dạng hình ảnh1.85: 1
Định dạng âm thanhDolby Digital
Quốc gia chiếu đầu tiên México
 Hoa Kỳ
Việt Nam
[...]
Phát sóng16 tháng 04, 1992
Phát sóng tại Việt Nam25 tháng 01, 2004
Liên kết ngoài
Trang mạng chính thức
Trang mạng chính thức khác

Như nước pha sô cô la (tiếng Tây Ban Nha: Como agua para chocolate, tiếng Anh: Like Water for Chocolate) là nhan đề một bộ phim hiện thực huyền ảo do Alfonso Arau đạo diễn, xuất phẩm ngày 16 tháng 04 năm 1992 tại México.[1][2][3][4]

Lịch sử

[sửa | sửa mã nguồn]

Truyện phim phỏng theo tiểu thuyết cùng tên của tác gia Laura Esquivel, là ấn phẩm đắt khách nhất Bắc Mỹ năm 1989.[5]

Nội dung

[sửa | sửa mã nguồn]

Tuyến phim khai triển theo lời kể của một nhân vật nữ chưa rõ lai lịch.

Phu nhân Elena sinh gái út Tita ngay tại bàn bếp trong một cơn đau lạ lùng. Chồng bà ngờ vợ ngoại tình và chối bỏ đứa con này, thế rồi ông chết trong cơn phẫn uất. Tin theo truyền thống, bà bắt Tita phải ở vậy suốt đời để phụng dưỡng mẹ.

Lớn lên, Tita được bà bếp Nacha dạy nấu ăn. Không lâu sau, cậu Pedro Muzquiz tới hỏi cưới Tita, nhưng phu nhân Elena không tán thành. Pedro được gán cho chị cả Rosaura và ở rể. Từ đây, Pedro bắt đầu qua lại vụng trộm với Tita. Cô thường chế những món ăn có ngụ ý gửi gắm yêu thương tới Pedro, việc này không qua được ánh mắt soi xét của bà Elena.

Chị thứ Gertrudis tình cờ gặp nghĩa binh Juan Alejándrez rồi trần truồng trốn đi theo y. Tita thấy vậy, bèn dối mẹ rằng Gertrudis bị phiến quân bắt cóc. Bà Elena lại bẩm đức linh mục rằng Gertrudis bị phiến quân bắt làm đĩ.

Rosaura hạ sinh đứa con trai ốm yếu tên Roberto. Gia đình phải mời y sĩ John Brown về trị bệnh cho Rosaura. Nhân đấy, John cầu hôn Tita và được chấp thuận.

Một hôm, có toán cướp xộc vào trang viên hiếp dâm con hầu Chencha rồi ném phu nhân Elena xuống nước chết đuối. Trong tang lễ, tình cờ Tita phát hiện mẹ từng có tư tình. Rosaura quán xuyến gia đình thay bà Elena, bắt đầu áp đặt truyền thống lên đứa con gái mới sinh Esperanza. Pedro vì ghen Tita với John, đêm đến lẻn vào buồng cấu hiệp cùng cô.

Ít lâu sau, Gertrudis trở về cùng Juan, cả hai đã là tướng trong quân cách mạng. Tại tiệc mừng, Tita tiết lộ với Gertrudis rằng cô có thai với Pedro. Vì ghen, Pedro lại nói toạc với John về vụ ngoại tình. Tita cũng nhận lỗi với John, song anh bình thản chấp nhận và ngỏ ý muốn tiếp tục ở bên cô.

Rosaura bắt đầu nhiễm thói gia trưởng của phu nhân Elena, trong khi Tita vẫn bị bóng ma của bà ám ảnh. Rosaura dọa đuổi cô khỏi trang viên nếu tiếp tục dỗ Esperanza từ bỏ truyền thống gia đình. Esperanza được gả cho Alex - con riêng của y sĩ John Brown. Chẳng bao lâu, Rosaura chết vì bệnh đường ruột hiếm gặp, coi như giải thoát Esperanza khỏi truyền thống gia đình.

Trong đám cưới Esperanza, Pedro rủ Tita vào căn nhà sau vườn ái ân. Đương lúc mặn nồng thì chàng trụy tim mà chết, Tita cũng nuốt diêm sinh rồi đốt cháy căn nhà.

Nhân vật người kể truyện tự xưng con gái Esperanza. Cô nói vừa tìm được cuốn sách dạy nấu ăn của bà trẻ Tita và sẽ truyền lại cho con cháu mình.

Kĩ thuật

[sửa | sửa mã nguồn]

Phim được thực hiện tại Acuña, Piedras NegrasEagle Pass từ ngày 18 tháng 12 năm 1991.[6]

Sản xuất

[sửa | sửa mã nguồn]
  • Tuyển lựa: Claudia Becker, Felipe Fernandez, Liza Willert
  • Thiết kế: Marco Antonio Arteaga, Gonzalo Ceja, Mauricio de Aguinaco, Ricardo M. Kaplan, Emilio Mendoza, Denise Pizzini
  • Giám chế: Ricardo M. Kaplan
  • Phục trang: Carlos Brown

Diễn xuất

[sửa | sửa mã nguồn]

Phong hóa

[sửa | sửa mã nguồn]

Toàn bộ truyện phim Như nước pha sô cô la thấm đẫm phong tục tập quán người dân México miền biên viễn, với các vũ điệu lạ mắt cùng những món ăn bí truyền từ bao thế hệ.[7]

Như nước pha sô cô la received critical acclaim from critics. On review aggregator website Rotten Tomatoes, the film holds an approval rating of 88%, based on 48 reviews, and an average rating of 7.6/10.[8] On Metacritic, it has a score of 86 out of 100 based on 18 critics, indicating "universal acclaim".

The American release of this film is quite shorter than the original Mexican version. In the original release, you see the main character Tita return home to take care of her dying mother; in the American release, this complete sequence is removed and instead Tita only returns home for her mother's funeral.[cần dẫn nguồn]

The film became the highest-grossing foreign-language film ever released in the United States and Canada at the time with a gross of $21.6 million, surpassing the previous record of $20.2 million set by I Am Curious (Yellow) released in 1969.[1]

Vinh hiển

[sửa | sửa mã nguồn]
Giải thưởng Ariel

The Ariel Awards are awarded annually by the Mexican Academy of Film Arts and Sciences in Mexico. Como agua para chocolate received ten awards out of 14 nominations.[9]

Năm Đề cử / Tác phẩm Giải thưởng Result
1992 Como Agua Para Chocolate Best Picture Đoạt giải
Alfonso Arau Best Director Đoạt giải
Mario Iván Martínez Best Actor Đoạt giải
Regina Torné Best Actress Đoạt giải
Lumi Cavazos Đề cử
Claudette Maillé Best Supporting Actress Đoạt giải
Pilar Aranda Đề cử
Joaquín Garrido Best Actor in a Minor Role Đề cử
Margarita Isabel Best Actress in a Minor Role Đoạt giải
Laura Esquivel Best Screenplay Đoạt giải
Emmanuel Lubezki Best Cinematography Đoạt giải
Carlos Bolado and Francisco Chiú Best Editing Đề cử
Emilio Mendoza, Gonzalo Ceja and Ricardo Mendoza Best Production Design Đoạt giải
Marco Antonio Arteaga, Carlos Brown, Mauricio De Aguinaco and Denise Pizzini Best Set Design Đoạt giải
Quả Cầu Vàng
Năm Đề cử / Tác phẩm Giải thưởng Result
1992 Como Agua Para Chocolate Phim ngoại ngữ hay nhất Đề cử

Ảnh hưởng

[sửa | sửa mã nguồn]

Tại Việt Nam, bộ phim được VTV1 giới thiệu trong chương trình Phim cuối tuần Tết Nguyên Đán 2004 dưới nhan đề Như nước với lửa. Trước đó, Laura Esquivel đã là một tác gia Mỹ Latin quen thuộc trên văn đàn Việt Nam[10][11][12].

Khi phát hành tại Hoa lục, nhan đề phim được đổi thành Người tình sô cô la (巧克力情人). Còn tại Nhật BảnTình sử sô cô la (赤い薔薇ソースの伝説).[13]

Tham khảo

[sửa | sửa mã nguồn]

Chú thích

[sửa | sửa mã nguồn]
  1. ^ a b 'Chocolate' meanders towards B.O. record”. Daily Variety: 23. 12 tháng 4 năm 1994.
  2. ^ Neibylski, Dianna C (1998). “Heartburn, Humor and Hyperbole in Like Water for Chocolate”. Trong Hengen, Shannon (biên tập). Performing Gender and Comedy: Theories, Texts and subtext. Routledge. tr. 189. ISBN 978-90-5699-539-3..
  3. ^ Margaret Herrick Library, Academy of Motion Picture Arts and Sciences
  4. ^ Marx, Andy (2 tháng 12 năm 1992). “Foreign Oscar entries submitted”. Variety. Truy cập ngày 20 tháng 9 năm 2015.
  5. ^ “Laura Esquivel Biography”. Biography.com. Bản gốc lưu trữ ngày 14 tháng 6 năm 2008. Truy cập ngày 20 tháng 8 năm 2017.
  6. ^ “315 spring st del rio, tx”. realtor.com. 31 tháng 3 năm 2021.
  7. ^ Frías, Sonia M. (10 tháng 3 năm 2017). “Family and Partner Violence Against Women: Forced Marriage in Mexican Indigenous Communities”. International Journal of Law, Policy and the Family (bằng tiếng Anh). 31 (1): 60–78. doi:10.1093/lawfam/ebw014. ISSN 1360-9939.
  8. ^ “Like Water for Chocolate (Como Agua para Chocolate) (1992)”. Rotten Tomatoes. Fandango Media. Truy cập ngày 17 tháng 10 năm 2023.
  9. ^ “XXXIV 1992 — Ganadores y nominados” (bằng tiếng Spanish). Asociación Mexicana de Artes y Ciencias Cinematográficas. 1992. Bản gốc lưu trữ ngày 16 tháng 6 năm 2016. Truy cập ngày 20 tháng 10 năm 2016.Quản lý CS1: ngôn ngữ không rõ (liên kết)
  10. ^ Như nước pha sô cô la - Bình luận
  11. ^ Finnegan, N. (1999). At Boiling Point: Like Water for Chocolate and the Boundaries of Mexican Identity. Bulletin of Latin American Research, 18:3, 311-326.
  12. ^ Frías, Sonia M. (ngày 10 tháng 3 năm 2017). “Family and Partner Violence Against Women: Forced Marriage in Mexican Indigenous Communities”. International Journal of Law, Policy and the Family (bằng tiếng Anh). 31 (1): 60–78. doi:10.1093/lawfam/ebw014. ISSN 1360-9939.
  13. ^ Craft, Dan (30 tháng 12 năm 1994). “Success, Failure and a Lot of In-between; Movies '94”. The Pantagraph. tr. B1.

Liên kết

[sửa | sửa mã nguồn]

Tài liệu

[sửa | sửa mã nguồn]

Tư liệu

[sửa | sửa mã nguồn]