Bước tới nội dung

Nguyễn Ức

Bách khoa toàn thư mở Wikipedia
Nguyễn Ức
阮億
Tên hiệuLan Trai
Thông tin cá nhân
Giới tínhnam
Nghề nghiệpnhà thơ, quan lại
Quốc tịchĐại Việt
Thời kỳnhà Trần

Nguyễn Ức (chữ Hán: 阮億, ? - ?), hiệu: Lan Trai; là nhà thơ và quan triều Trần trong lịch sử Việt Nam.

Tiểu sử

[sửa | sửa mã nguồn]

Chưa rõ thân thế và sự nghiệp của Nguyễn Ức, chỉ biết ông từng làm quan Hàn lâm học sĩ dưới triều vua Trần Minh Tông (ở ngôi: 1314-1329), có tham gia thi xã Bích Động do Trần Quang Triều sáng lập, và còn để lại 20 bài thơ chữ Hán trong Việt âm thi tậpToàn Việt thi lục.

Qua thơ, người ta biết Nguyễn Ức thường hay xướng họa với Trần Quang Triều. Và sau khi người bạn này mất, ông đã lo việc biên tập thơ văn của bạn. Bài "Biên tập Cúc Đường di cảo cảm tác" của ông đã nói lên điều ấy.

Nhận xét

[sửa | sửa mã nguồn]

Mặc dù số thơ của Nguyễn Ức còn lại không nhiều, nhưng ông cùng với Trần Quang TriềuNguyễn Sưởng họp thành một dòng thơ riêng thời Trần. Theo GS. Nguyễn Huệ Chi, thì đó là những con người mang trong lòng nỗi thất vọng sâu sắc về sự suy thoái của vương triều này. Song riêng ở Nguyễn Ức, ông không có sự gắng gượng hoặc che giấu mình như người khác, vì thế thơ ông mang âm điệu chán nản, tiêu cực, có xu hướng chuyển dần sang hư vô chủ nghĩa...Về mặt nghệ thuật, ngòi bút của ông thật là lão luyện. Ông biết cách làm cho câu thơ thêm buồn trĩu, và thể hiện được những cảm giác cô đơn, xa vắng...[1]

Thơ Nguyễn Ức

[sửa | sửa mã nguồn]

Giới thiệu 2 bài:

Phiên âm Hán-Việt:
Đồ mi
Áp giá sơ khai tam lưỡng chi,
Thượng Dương cung nữ đối sầu thì.
Nhất sinh bất thức mai hoa diện,
Độc điện thiều quang tác hậu kỳ.
Dịch nghĩa:
Hoa đồ mi [2]
Vài ba cành mới nở đè lên trên đàn,
Cũng là lúc người cung nữ ở Thượng Dương đang sầu khổ [3]
Suốt đời chẳng biết mặt hoa mai là gì cả,
Riêng mình đến muộn, lẽo đẽo theo sau bóng thiều quang.
Phiên âm Hán-Việt:
Bạc chu Ứng Phong đình ngẫu đề
Hệ lãm giang đình mịch thắng du,
Tiền triều hành điện dĩ hoang khưu,
Oanh hoa bất thức hưng vong sự,
Liêu loạn xuân quang vị khẳng hưu!.
Dịch nghĩa:
Đậu thuyền bên đình Ứng Phong[4] ngẫu hứng đề thơ
Buộc thuyền cạnh đình bên sông tìm chơi thắng cảnh,
Hành cung triều trước, đã thành gò hoang.
Mùa xuân chẳng biết việc hưng phế,
Làm rối nắng xuân mãi chưa thôi!

Chú thích

[sửa | sửa mã nguồn]
  1. ^ Lược theo Nguyễn Huệ Chi, tr. 1216.
  2. ^ Hoa đồ mi còn được gọi là trà mi.
  3. ^ Vua Đường Huyền TôngDương Quý Phi bỏ quên tất cả cung nữ ở Thượng Dương. Một số cung nữ ở đây vì thế than thở với nhau về cảnh lỡ làng. Ở bài thơ trên, tác giả ví hoa đồ mi nở cuối xuân đầu hạ, cũng giống như những người cung nữ tủi phận, chẳng biết xuân là gì (chú thích theo Văn học thế kỷ X-XVI, tr. 657).
  4. ^ Đình Ứng Phong ở phủ Nghĩa Hưng, tỉnh Nam Định. Nhà Lý từng xây hành cung ở đây.

Sách tham khảo

[sửa | sửa mã nguồn]
  • Trần Văn Giáp, Tìm hiểu kho sách Hán Nôm, mục: "Nguyễn Ức". Nhà xuất bản Khoa học xã hội, 2003.
  • Nguyễn Huệ Chi, mục từ "Nguyễn Ức" trong Từ điển văn học (bộ mới). Nhà xuất bản Thế giới, 2004.
  • Nguyễn Đăng Na (chủ biên), Văn học thế kỷ X-XVI, mục từ "Nguyễn Ức". Nhà xuất bản Khoa học xã hội, 1992.