Megan Thee Stallion
Megan Thee Stallion | |
---|---|
Sinh | Megan Jovon Ruth Pete 15 tháng 2, 1995 San Antonio, Texas, Hoa Kỳ |
Quốc tịch | Người Mỹ |
Tên khác |
|
Nghề nghiệp | |
Năm hoạt động | 2016 - nay |
Chiều cao | 178 cm (5 ft 10 in) |
Website | megantheestallion |
Sự nghiệp âm nhạc | |
Nguyên quán | Houston, Texas, Hoa Kỳ |
Thể loại | Hip hop |
Hãng đĩa | |
Hợp tác với |
Megan Jovon Ruth Pete (sinh ngày 15 tháng 2 năm 1995), thường được biết đến với nghệ danh Megan Thee Stallion (phát âm là "Megan The Stallion"[1][2]), là một nữ rapper người Mỹ. Khởi đầu ở Houston, Texas, cô lần đầu tiên nhận được sự chú ý khi những video đọc rap tự do của cô trở nên phổ biến trên các phương tiện truyền thông xã hội như Instagram.
Megan Thee Stallion đã ký hợp đồng với 300 Entertainment vào năm 2018, nơi cô phát hành mixtape Fever (2019), đĩa mở rộng Suga (2020), và album phòng thu đầu tay được giới phê bình đánh giá cao, Good News (2020); tất cả đều ra mắt trong top 10 của Billboard 200. Đĩa đơn của cô, "Savage Remix" hợp tác với Beyoncé, và sự góp giọng của cô trong đĩa đơn "WAP" của Cardi B là quán quân đầu tiên và thứ hai của cô trên bảng xếp hạng Billboard Hot 100 của Hoa Kỳ, với "WAP" đem lại cho Megan vị trí số 1 đầu tiên của cô ở một số quốc gia khác và Billboard Global 200.
Trong suốt sự nghiệp của mình, Megan Thee Stallion đã nhận được nhiều giải thưởng, bao gồm 6 giải BET Awards, 5 giải BET Hip Hop Awards, 4 giải American Music Awards, 2 giải MTV Video Music Awards, 1 giải Billboard Women in Music Award, và 3 giải Grammy Awards. Tại Giải Grammy lần thứ 63, cô đã trở thành nữ rapper thứ hai đoạt giải Nghệ sĩ mới xuất sắc nhất, sau Lauryn Hill vào năm 1999. Vào năm 2020, Time đã vinh danh cô là một trong 100 người có ảnh hưởng nhất trên thế giới trong danh sách thường niên của họ.
Cuộc sống đầu đời và giáo dục
[sửa | sửa mã nguồn]Megan Jovon Ruth Pete,[3] sinh ngày 15 tháng 2 năm 1995,[4] ở San Antonio, Texas, và mẹ của cô, Holly Thomas,[5] ngay lập tức chuyển đến Houston sau khi sinh cô.[6] Mẹ của cô cũng là một rapper, bà đọc rap với nghệ danh "Holly-Wood" và sẽ mang theo cô con gái của bà đến các buổi thu âm thay vì đưa cô vào nhà trẻ.[5] Megan lớn lên ở khu South Park của Houston,[7] trước khi cùng mẹ cô chuyển đến Pearland, Texas ở tuổi 14, nơi cô sống cho đến khi 18 tuổi.[5] Megan bắt đầu viết rap năm 14 tuổi.[8] Cuối cùng, khi cô cho Holly thấy kỹ năng đọc rap của mình ở tuổi 18, Holly đã yêu cầu Megan đợi cho đến khi cô đủ 21 tuổi để theo đuổi sự nghiệp đọc rap.[9] Mẹ cô nhận xét rằng lời bài hát của cô quá gợi dục so với độ tuổi của cô.[10] Megan theo học Pearland High School,[3] và đã tốt nghiệp vào năm 2013.[11] Cha của cô đã qua đời trong năm học trung học thứ nhất của cô.[3]
Vào năm 2013, khi Megan đang là sinh viên của Prairie View A&M University, cô bắt đầu đăng tải các video quay cảnh mình đọc rap tự do trên mạng xã hội.[7] Đoạn clip Megan đấu với đối thủ nam trong trận đấu "cypher" đã được lan truyền rộng rãi. Sự xuất hiện đã giúp Megan có được sự hiện diện lớn hơn và lượt theo dõi cao hơn trên mạng xã hội.[7][8][9][12] Cô đã thu hút người hâm mộ bằng cách đăng những video đọc rap tự do của mình trên Instagram của cô khi còn học đại học. Cô gọi người hâm mộ của mình là "hotties" và ghi nhận cộng đồng người hâm mộ hiếu động của cô vì thành công ban đầu của cô.[13]
Cô lấy nghệ danh là "Megan Thee Stallion" vì cô được gọi là "stallion" ở độ tuổi thiếu niên do chiều cao vượt trội của mình (5′10″ hoặc 178 cm),[9] và có thân hình "dày dặn":[12] những người phụ nữ gợi cảm và xinh đẹp như tượng ở miền Nam của Hoa Kỳ được gọi một cách thông tục là stallions.[3]
Đời tư
[sửa | sửa mã nguồn]Megan Thee Stallion đề cập đến việc là một phần trong Creole trong các bài hát "Cocky AF" và "Freak Nasty" của cô cũng như trong một dòng tweet vào tháng 9 năm 2017.[14][15][16] Mẹ của cô, Holly Thomas, qua đời vào tháng 3 năm 2019 do một khối u não ung thư lâu năm và bà của cô qua đời trong cùng tháng.[17][18][19] Ngoài vai trò là người quản lý của Megan, Thomas đã ảnh hưởng đến quyết định theo học chuyên ngành quản lý y tế của Megan và cũng giúp nuôi dưỡng mong muốn của cô là thành lập các cơ sở hỗ trợ sinh hoạt ở quê hương Houston của cô.[20] Sau khi nghỉ học trước đó, cô đã tiếp tục việc học của mình tại Texas Southern University với chuyên ngành quản lý y tế, nơi cô hiện là sinh viên năm thứ ba tính đến năm 2019.[9][10][13][21][22]
Cô có bốn con chó: một con chó ngao Pháp tên là 4oe (phát âm là Four),[23] Dos, Five, và Ten.[24]
Megan Thee Stallion đã xác nhận mối quan hệ của cô với nam rapper đồng nghiệp Pardison Fontaine thông qua Instagram Live vào ngày 19 tháng 2 năm 2021.[25]
Tham khảo
[sửa | sửa mã nguồn]- ^ “Bản sao đã lưu trữ”. Lưu trữ bản gốc ngày 12 tháng 8 năm 2020. Truy cập ngày 7 tháng 6 năm 2020.Quản lý CS1: bot: trạng thái URL ban đầu không rõ (liên kết)
- ^ “Bản sao đã lưu trữ”. Lưu trữ bản gốc ngày 25 tháng 9 năm 2020. Truy cập ngày 7 tháng 6 năm 2020.Quản lý CS1: bot: trạng thái URL ban đầu không rõ (liên kết)
- ^ a b c d Ogunnaike, Lola (6 tháng 4 năm 2020). “Megan Thee Stallion Is Just Warming Up”. Marie Claire. ISSN 0025-3049. Lưu trữ bản gốc ngày 29 tháng 6 năm 2020. Truy cập ngày 27 tháng 6 năm 2020.
- ^ “Megan Thee Stallion's life in photos”. USA Today. 15 tháng 2 năm 2021. Truy cập ngày 31 tháng 8 năm 2021.
We've got some "Good News": Megan Thee Stallion turns 26 on Feb. 15, 2021.
- ^ a b c Harris, Hunter (25 tháng 4 năm 2019). “How Did Megan Thee Stallion Become the Next Hottest Rapper Out of Texas”. Vulture. Lưu trữ bản gốc ngày 22 tháng 6 năm 2020. Truy cập ngày 27 tháng 6 năm 2020.
- ^ “Megan Thee Stallion Goes Undercover on YouTube, Twitter and Instagram | GQ”. YouTube. GQ. 16 tháng 11 năm 2020. Truy cập ngày 26 tháng 11 năm 2020. Event occurs at 1:30Quản lý CS1: postscript (liên kết)
- ^ a b c Howard, Nandi (30 tháng 8 năm 2018). “Megan Thee Stallion Electrifying rap out of Houston”. The Fader. ISSN 1533-5194. Lưu trữ bản gốc ngày 11 tháng 12 năm 2018. Truy cập ngày 27 tháng 11 năm 2018.
- ^ a b Lỗi chú thích: Thẻ
<ref>
sai; không có nội dung trong thẻ ref có tênxxl-oct2018
- ^ a b c d Riedy, Jack (3 tháng 10 năm 2018). “NEXT: Megan Thee Stallion Is Taking Rappers To School”. Vibe. ISSN 1070-4701. Lưu trữ bản gốc ngày 4 tháng 10 năm 2018. Truy cập ngày 27 tháng 11 năm 2018.
- ^ a b Gomez, Jade (16 tháng 3 năm 2019). “How Megan Thee Stallion Earned Her Confidence”. Rolling Stone. ISSN 0035-791X. Lưu trữ bản gốc ngày 21 tháng 6 năm 2020. Truy cập ngày 27 tháng 6 năm 2020.
- ^ Harvin, Darian Symoné (25 tháng 6 năm 2019). “Megan Thee Stallion Prepares for 'Hot Girl Summer' With a Pageant”. The New York Times. ISSN 0362-4331. Lưu trữ bản gốc ngày 11 tháng 6 năm 2020. Truy cập ngày 27 tháng 6 năm 2020.
- ^ a b Howard, Nandi (17 tháng 9 năm 2017). “Rapper Megan Thee Stallion Answers Our Questions (and Releases an EP)”. Houstonia. ISSN 2327-0926. Truy cập ngày 27 tháng 11 năm 2018.
- ^ a b Classified, Mo (10 tháng 7 năm 2018). “Source Exclusive: Megan Thee Stallion Talks 'Tina Snow' EP & Her Alter Ego Being the Female Pimp C”. The Source : The Bible of Hip-Hop Music, Culture & Politics. The Source. ISSN 1063-2085. Lưu trữ bản gốc ngày 20 tháng 11 năm 2018. Truy cập ngày 27 tháng 11 năm 2018.
- ^ “Lyrics: Cocky AF by Megan Thee Stallion”. Genius. Lưu trữ bản gốc ngày 1 tháng 3 năm 2020. Truy cập ngày 27 tháng 6 năm 2020.
He heard I'm Creole, he think I know voodoo
- ^ “Lyrics: Freak Nasty by Megan Thee Stallion”. Genius. Truy cập ngày 27 tháng 6 năm 2020.
Creole mami, huh
- ^ HOT GIRL MEG [@theestallion] (10 tháng 9 năm 2017). “Thee creole mami thee htown Hottie” (Tweet) – qua Twitter.
- ^ “Megan Thee Stallion Opens Up About Losing Her Mother In Emotional Video”. Vibe. 24 tháng 12 năm 2019. ISSN 1070-4701. Lưu trữ bản gốc ngày 21 tháng 6 năm 2020. Truy cập ngày 3 tháng 8 năm 2020.
- ^ Grant, Jasmine (24 tháng 3 năm 2019). “Megan Thee Stallion Reveals Her Mother Died From A 'Brain Tumor'”. Essence. ISSN 0014-0880. Lưu trữ bản gốc ngày 24 tháng 3 năm 2019. Truy cập ngày 26 tháng 3 năm 2019.
- ^ Caldwell, Brandon (22 tháng 3 năm 2019). “Condolences: Megan Thee Stallion's Mother, Holly Thomas, Passes Away”. 97.9 The Box. Lưu trữ bản gốc ngày 22 tháng 3 năm 2019. Truy cập ngày 22 tháng 3 năm 2019.
- ^ Lỗi chú thích: Thẻ
<ref>
sai; không có nội dung trong thẻ ref có tênpitchfork.com
- ^ Gracie, Bianca (11 tháng 12 năm 2018). “Meet Megan Thee Stallion, the Houston Rapper Crafting the Hottest Bars While Still Attending College”. Billboard. ISSN 0006-2510. Lưu trữ bản gốc ngày 30 tháng 7 năm 2020. Truy cập ngày 27 tháng 6 năm 2020.
- ^ Jones, Da'Lyah. “Two & Fro: Swangin' and Bangin' (Ep. 2)”. NPR. Bản gốc lưu trữ ngày 26 tháng 6 năm 2019. Truy cập ngày 27 tháng 11 năm 2018.
- ^ “FOLLOWING MEGAN THEE STALLION'S DOG ON INSTAGRAM WAS A GREAT DECISION”. Nylon Magazine. Bustle Digital Group.
- ^ Megan Thee Stallion Goes Undercover on YouTube, Twitter and Instagram | GQ (bằng tiếng Anh), truy cập ngày 2 tháng 3 năm 2021
- ^ “Megan Thee Stallion Confirms She's Dating Pardison Fontaine: 'That's My Boo'”. Billboard (bằng tiếng Anh). Truy cập ngày 1 tháng 3 năm 2021.