Lori (tỉnh)
Lori Լոռի | |
---|---|
— Tỉnh — | |
Vị trí của Lori trong Armenia | |
Quốc gia | Armenia |
Tỉnh lỵ kiêm đô thị lớn nhất | Vanadzor |
Diện tích | |
• Tổng cộng | 3.799 km2 (1,467 mi2) |
Thứ hạng diện tích | Thứ 3 |
Dân số (2011) | |
• Tổng cộng | 235.537[1] |
• Thứ hạng | Thứ 6 |
Mã bưu chính | 1701–2117 |
Mã ISO 3166 | AM-LO |
FIPS 10-4 | AM06 |
Website | Official website |
Lori (tiếng Armenia: Լոռի, phát âm tiếng Armenia: [lɔˈri] ⓘ) là một tỉnh (marz) của Armenia. Nó nằm ở miền bắc đất nước, tiếp giáp vùng Kvemo Kartli của Gruzia. Vanadzor là tỉnh lỵ kiêm đô thị lớn nhất tỉnh. Những thị trấn đáng kể khác gồm Stepanavan, Alaverdi, và Spitak. Nơi đây có ba di sản thế giới UNESCO là tu viện Haghpat, tu viện Sanahin và đặc biệt là tu viện Akhtala (nơi người Armenia, người Gruzia và người Hy Lạp hành hương đến hàng năm vào ngày 20–21 tháng 9).[2]
Tỉnh chịu thiệt hại nặng trong trận động đất Armenia 1988.
Tên gọi
[sửa | sửa mã nguồn]Cái tên Lori (Լոռի, hay Loré ლორე trong tiếng Gruzia) xuất hiện lần đầu vào thế kỷ XI khi Vua David I Anhoghin lập nên thành Lori (Loré).[3] Pháo đài-thành phố này trở thành trở thành kinh đô vương quốc Tashir-Dzoraget năm 1065. Cái tên Lori sau dần lan rộng rồi thế chỗ tên cũ Tashir.[4]
Địa lý
[sửa | sửa mã nguồn]Nằm ở miền bắc Armenia, Lori rộng 3.789 kilômét vuông (1.463 dặm vuông Anh) (12,7% tổng diện tích Armenia). Nó giáp Tavush về phía đông, Kotayk về phía đông giáp, Aragatsotn về phía tây nam và Shirak về phía tây. Lori có biên giới quốc gia với vùng Kvemo Kartli của Gruzia.
Về lịch sử, địa phận tỉnh Lori ngày nay gắn với vùng Tashir, Boghnopor và Dzorapor thuộc tỉnh Gugark Armenia cổ đại.
Địa bàn Lori lắm núi non, với các dãy Javakheti, Bazum, Pambak, Gugark, Halab và Somkheti. Điểm cao nhất là đỉnh núi Achkasar trong dãy Javakheti với độ cao 3196 m. Điểm thập nhất đạt 380 m, tại thung lũng Debed mạn đông bắc tỉnh.[5]
Sông chính chảy qua là sông Debed cùng các phụ lưu Dzoraget, Pambak và Martsaget.
Khí hậu nổi bật với mùa đông rất lạnh, tuyết rơi và mùa hè dịu. Lượng tuyết rơi hàng năm là 600 và 700 mm (24 và 28 in).
Các cộng đồng
[sửa | sửa mã nguồn]Tỉnh có các cộng đồng (hamaynkner) sau (trong đó có 8 cộng đồng in đậm trong bảng là thành thị và 105 cộng đồng nông thôn).[6] Việc phân chia dưới đây là bằng raion, phân khu hành chính của Armenia trước năm 1995.
Alaverdi | Vanadzor | Spitak | Stepanavan | Tashir |
---|---|---|---|---|
Hình ảnh
[sửa | sửa mã nguồn]-
Miền bắc Lori nhìn từ đèo Pushkin
-
Làng Lermontovo
-
Dãy Somkheti và làng Karmir Aghek
Tham khảo
[sửa | sửa mã nguồn]- ^ Lori population, 2011 census
- ^ Tadevosyan, Aghasi (2007). Historical Monuments of Armenia: Akhtala. Yerevan, Armenia: "Var" Center for Cultural Initiatives. ISBN 978-99941-2-070-3.
- ^ Hewsen, Robert H. (2001). Armenia: A Historical Atlas. Chicago: University of Chicago Press. tr. 114. ISBN 0-226-33228-4.
- ^ Matevossian, R. (1978). “Լոռի [Lori]”. Trong Hambardzumyan, Viktor (biên tập). (bằng tiếng Armenia). 4. Yerevan: Armenian Encyclopedia. tr. 663–64. Đã bỏ qua tham số không rõ
|encyclopedia=
(trợ giúp);|title=
trống hay bị thiếu (trợ giúp) - ^ “Lori province description”. Bản gốc lưu trữ ngày 25 tháng 9 năm 2015. Truy cập ngày 1 tháng 3 năm 2019.
- ^ “RA Lori Marz” (PDF). Marzes of the Republic of Armenia in Figures, 2002-2006. National Statistical Service of the Republic of Armenia. 2007.