Bước tới nội dung

Kesha

Bách khoa toàn thư mở Wikipedia
(Đổi hướng từ Ke$ha)
Kesha
A closeup picture of Kesha with long mauve hair.
Kesha tại buổi ra mắt phim Planes: Fire & Rescue vào ngày 15 tháng 7 năm 2014
SinhKesha Rose Sebert
1 tháng 3, 1987 (37 tuổi)
Los Angeles, California, Hoa Kỳ
Nghề nghiệp
  • Ca sĩ
  • sáng tác nhạc
  • diễn viên
Quê quánBrentwood, Tennessee, Hoa Kỳ
Cha mẹPebe Sebert (mẹ)
Websitekeshaofficial.com
Sự nghiệp âm nhạc
Thể loại
Nhạc cụ
  • Giọng hát
  • guitar
  • piano
  • keyboards
Năm hoạt động2005–nay
Hãng đĩa
Hợp tác với

Kesha Rose Sebert (sinh ngày 1 tháng 3 năm 1987), hay còn được biết với tên Kesha (đọc /ˈkɛʃə/ KESH-ə, nghệ danh cũ: Ke$ha), là một ca sĩ-nhạc sĩ, rapper người Mỹ. Năm 2005, tại tuổi 18, Kesha ký hợp đồng với hãng đĩa của Dr. Luke, Kamosabe Entertainment. Mặc dù đã hoạt động âm nhạc kể từ đó, hát bè và viết nhạc hay xuất hiện trong các video ca nhạc của các ca sĩ khác, sự đột phá của cô mới nổ ra từ đầu 2009 sau khi xuất hiện trên đĩa đơn quán quân của Flo Rida, Right Round. Album đầu tay của cô, Animalđĩa mở rộng, Cannibal, đều được phát hành vào năm 2010. Chính âm nhạc và hình ảnh của cô đã đưa cô đến với sự thành công vang dội, với Animal xuất hiện lần đầu tiên ở vị trí đầu bảng tại Mỹ. Cô còn có hai đĩa đơn quán quân, "Tik Tok" và "We R Who We R", cùng với một chuỗi các đĩa đơn lọt vào top ten từ album và phiên bản phát hành lại của nó. Trong khi đó, cô tiếp tục viết nhạc cho các ca sĩ khác, trong đó có "Till the World Ends" cho ca sĩ nhạc pop Britney Spears. Warrior, album thứ hai của cô, phát hành vào tháng 12 năm 2012, đem lại cho Kesha đĩa đơn top ten thứ tám với "Die Young".

Chịu ảnh hưởng từ nhiều thể loại âm nhạc và nghệ sĩ, Kesha chủ yếu lấy cảm hứng từ âm nhạc trong những năm của thập niên 80; Madonna, QueenBeck đã được đề cập đến là gương mẫu cho phong cách nghệ thuật của cô. Sau khi trải nghiệm với nhiều thể loại như nhạc đồng quê, pop rocknhạc điện tử, Kesha giữ vững với thể loại cuối cùng. Giọng hát kiểu "nửa rap nửa hát", hò, cùng với việc sử dụng auto-tune quá mức đã trở nên nhãn hiệu của riêng cô. Chủ đề âm nhạc của cô thường liên quan đến tiệc tùng, quậy phá, vui vẻ, mặc dù có một số bài hát rất riêng tư. Cô tham gia rất nhiều hoạt động, nổi bật nhất là về quyền động vậtLGBT. Kesha đã được đề cử hơn 40 giải thưởng, với 10 giải thắng. Trong số đó có Giải Âm nhạc châu Âu của MTV cho Nghệ sĩ mới xuất sắc nhất vào năm 2010 và một số giải thưởng Billboard.

Tiểu sử

[sửa | sửa mã nguồn]
Kesha biểu diễn trên sân khấu vào năm 2011.

Kesha được sinh ra tại Los Angeles, California vào ngày 1 tháng 3 năm 1987. Mẹ của cô, Pebe Sebert, là một ca sĩ-nhạc sĩ người đồng sáng tác ca khúc "Old Flames Can't Hold a Candle to You" cùng với Hugh Moffatt cho Joe Sun. Pebe, một người mẹ độc thân, phải bương trải rất nhiều để lo cho bản thân cô, Kesha, và anh trai của cô Lagan; họ sống dựa vào tiền trợ cấp và phiếu thực phẩm.[1] Khi Kesha còn nhỏ, Pebe thường đem cô lên sân khấu cùng biểu diễn.[2] Kesha tiết lộ cô không hề biết gì về cha cô.[1] Mặc dù có một người đàn ông tự cho mình là cha cô đã liên lạc với tạp chí Star vào năm 2011 cùng với hình ảnh và thư từ, cho rằng đó là bằng chứng rằng họ đã từng có quan hệ cha-con trước khi cô lên 19 tuổi.[3] Hai ông bà ngoại của cô đều là dân nhập cư từ Szentes, Hungary trong khi bà ngoại của cô là người gốc Ba Lan.[4] Pebe cùng gia đình chuyển đến sống ở Nashville, Tennessee, vào năm 1991 sau khi nhận được một hợp đồng viết nhạc mới. Em trai của Kesha, Louis, được sinh ra sau đó. Pebe thường xuyên dẫn Kesha cùng với anh và em trai cô đến các phòng thu và khuyến khích Kesha hát khi cô phát hiện ra chất giọng của Kesha.[1] Kesha cho rằng cô không thể hòa nhập với trường học ở Brentwood ngoại ô Nashville, mà cô gọi là vùng Đai Thánh Kinh, giải thích rằng cách mặc váy của cô cùng với chiếc quần nhung tím tự may và mái tóc tím không làm các học sinh khác thích thú.[5] Cô chơi kèn trumpetsaxophone cho ban nhạc của trường, và tự mô tả bản thân mình trong một cuộc phỏng vấn với NPR là một học sinh siêng năng và cần cù.[6][7]

Kesha từng đi học tại trường trung học Franklin và Brentwood ở Nashville.[8] Ngoài ra còn tham dự các lớp học viết nhạc,[9] Kesha cũng được chính mẹ mình dạy, và họ thường viết nhạc chung sau khi cô đi học về.[1][7] Sau đó, Kesha bắt đầu thu âm những bản thu âm thử mà Pebe sẽ giới thiệu nó cho những người cô quen biết.[9] Kesha cũng đã từng là thành viên trong ban nhạc của anh mình, Lagan.[10][11] Kesha và Pebe cùng sáng tác ca khúc Stephen khi cô 16 tuổi, Kesha gửi nó đến David Gamson, một nhà sản xuất mà cô yêu thích, đến từ Scritti Politti và anh đồng ý sản xuất bài hát.[11] Cô bỏ học vào năm 17 tuổi, sau khi được Dr. LukeMax Martin thuyết phục phải qua Los Angeles để theo đuổi sự nghiệp âm nhạc của mình, và lấy bằng tốt nghiệp phổ thông sau.[12] Cũng trong khoảng thời gian đó, Pebe trả lời một cuộc điện thoại từ chương trình thực tế, The Simple Life, tìm kiếm một gia đình "lạ" để Paris HiltonNicole Richie ghé thăm.[13] Và tập đó lên sóng vào năm 2005.[14] Luke và Martin nhận được một bản thu âm của Kesha từ Samantha Cox, một giám đốc của công ty sản xuất nhạc Broadcast Music Incorporated, và họ rất ấn tượng. Hai trong số những bản thu âm đó được mô tả trong tạp chí Billboard, đầu tiên là "một bản ballad đồng quê tự viết được hát rất hay" và thứ hai là "một bản trip-hop kinh khủng" mà Kesha rap tự do trong vòng một phút cho đến khi cô hết lời và không biết rap gì nữa ở đoạn cuối. Dr. Luke tiết lộ trong một cuộc phỏng vấn rằng chính bài hát thứ hai bắt được sự chú ý của anh, nói rằng "khi bạn đang nghe 100 đĩa CD, thì những bài hát dũng cảm như thế lại nổi trội"[15]

Sự nghiệp âm nhạc

[sửa | sửa mã nguồn]

2005–09: Khởi đầu

[sửa | sửa mã nguồn]
Kesha tại nước Áo vào mùa đông năm 2010.
Tôi đã rất hạnh phúc khi tôi nghèo. Và bây giờ tôi hạnh phúc vì tôi không còn nghèo nữa. Điều đó thực sự không ảnh hưởng gì đến tôi. Tôi quan tâm tới việc chăm sóc cho những người đã từng chăm sóc tôi – điều đó rất quan trọng. Nhưng thành thật rằng, tôi khá chán ghét sự tham lam quá độ của nhiều người nổi tiếng.[16]

Kesha giải thích ý nghĩa của ký hiệu đôla trên nghệ danh của cô.

Năm 2005, lúc cô 18 tuổi, Kesha ký hợp đồng với hãng đĩa của Dr. Luke, Kemosabe Entertainment, và công ty phát hành nhạc của anh, Prescription Songs.[15] Sau đó Kesha hát bè cho đĩa đơn của Paris Hilton, "Nothing in This World".[13] Vì Dr. Luke trở nên bận rộn với những dự án sắp tới của anh, sau khi gặt hái nhiều thành công trong việc viết và sản xuất album của Kelly Clarkson, Breakaway. Do đó Kesha lại ký hợp đồng với công ty quản lý của David Sonenberg, DAS Communications, vào năm 2006, hiếm khi tiếp xúc với Dr. Luke trong khoảng thời gian sau đó. DAS hứa hẹn sẽ lo cho Kesha một hợp đồng thu âm trong vòng một năm để đổi lấy 20% thu nhập của cô, với khả năng cô sẽ chấm dứt hợp đồng nếu họ thất bại.[17] Cô làm việc với nhiều nhạc sĩ và nhà sản xuất trong thời gian ở công ty như đồng sáng tác đĩa đơn của ban nhạc pop nước Úc The Veronicas, "This Love" cùng với nhà sản xuất Toby Gad.[15][18] Trong khi đang đẩy xa sự nghiệp của mình tại phòng thu, Kesha kiếm sống bằng nghề làm bồi bàn.[1] Cô thêm ký hiệu đôla trên nghệ danh của mình để mỉa mai những khó khăn về tài chính lúc đó.[16]

Kesha xuất hiện trong video ca nhạc cho đĩa đơn "I Kissed a Girl" của bạn cô, ca sĩ nhạc pop Katy Perry, và hát bè cho một bài hát do Dr. Luke sản xuất, "Lace and Leather" của ca sĩ nhạc pop Britney Spears vào năm 2008.[19] DAS hút được sự chú ý của nhạc sĩ Kara DioGuardi, người muốn ký Kesha vào hãng đĩa Warner Bros.. Nhưng việc đó không thể thực hiện vì cô vẫn còn hợp đồng với Dr. Luke. Vào tháng 9, cô hủy hợp đồng với DAS, trở lại cùng với Dr. Luke.[15][17] Kesha nhận được sự chú ý trong thị trường âm nhạc sau khi xuất hiện trên đĩa đơn quán quân của Flo Rida, "Right Round".[20] Sự hợp tác này xảy ra một cách rất tình cờ; cô tham gia trong một quá trình thu âm cho bài hát với Flo Rida và Dr. Luke.[21] Flo Rida muốn có một giọng nữ cho bài hát; và Dr. Luke liền đề xuất Kesha cho phần đó. Flo Rida rất thích những gì Kesha đem lại và họ hợp tác thêm hai bài nữa.[22] Nhưng cô không được ghi nhận cho sự góp giọng của mình ở bản phát hành tại Mỹ và không thu được đồng nào.[15][20] Cô cũng từ chối không xuất hiện trong video ca nhạc của bài hát, giải thích với tạp chí nam Esquire rằng cô muốn tự mình trở nên nổi tiếng.[19]

2009–11: AnimalCannibal

[sửa | sửa mã nguồn]
Kesha biểu diễn trong tour lưu diễn của mình vào năm 2010.

Sau khi thất bại trong việc thương lượng với hãng đĩa Lava và Atlantic vào năm 2009, Kesha ký một hợp đồng dài hạn với hãng đĩa RCA thông qua sự giúp đỡ của Dr. Luke.[15] Sau khi dành 6 năm để làm việc cho album đầu tay của mình,[23] cô bắt đầu hoàn thiện nó cùng với Luke và Max Martin. Cô viết 200 bài hát cho album.[23] Album được sản xuất bởi Dr. Luke, người đảm nhiệm hầu hết các bài hát cùng với Martin, và các nhà sản xuất khác như Benny BlancoAmmo. Album chủ yếu mang thể loại electropop với phách đập và synth, đánh dấu sự thay đổi phong cách của Dr. Luke.[24] Animal xuất hiện tại vị trí quán quân trên bảng xếp hạng Billboard 200 khi được phát hành vào tháng 1 năm 2010.[25] Nó được chứng nhận bạch kim tại Mỹ và đã bán được hơn hai triệu bản toàn cầu vào khoảng tháng 9.[26] Đĩa đơn mở đầu cho album, "Tik Tok", phá kỉ lục cho lượng bán ra cao nhất trong vòng một tuần, bán được hơn 610,000 bản, cao nhất từ trước đến nay cho một ca sĩ nữ.[27] Nó giữ vững ở vị trí đầu bảng trong vòng chín tuần và trở thành đĩa đơn đầu tay thành công nhất kể từ Debby Boone với "You Light Up My Life" vào năm 1977.[28] Những đĩa đơn khác từ album, "Blah Blah Blah", "Your Love Is My Drug" và "Take It Off" đạt được thành công tương tự khi mỗi bài hát đều lọt vào top ten tại Úc, Canada và Hoa Kỳ.[29] Kesha cũng xuất hiện trên hai đĩa đơn top ten của Taio Cruz và nhóm nhạc electro-pop 3OH!3.[30]

Cách thể hiện rất ngông cuồng và gu thẩm mỹ không hề hào nhoáng,[10][31] mà Kesha coi đó là cá tính của mình, đã nhanh chóng đem lại sự nổi tiếng cho cô.[10][31] Các nhà phê bình nói rằng nó rất thực,[10] trong khi số khác lại nghĩ rằng cô được sắp đặt và không hề đáng tin.[32][33][34] Các quản lý cũ của Kesha từ công ty DAS Communications đã nộp đơn kiện sau đó, đòi hoa hồng là 14 triệu đô từ Kesha và 12 triệu đô từ Dr. Luke cho hợp đồng của cô với hãng đĩa RCA, cho rằng cô đã gia hạn cho họ để kiếm hợp đồng thu âm rồi đột nhiên bỏ họ đi dưới sự ép buộc của Dr. Luke.[17] Kesha bắt đầu kiện vào tháng 10, trích dẫn Luật dành cho các công ty quản lý ca sĩ độc quyền ở California và yêu cầu Ủy viên Lao động Califnornia công bố rằng hợp đồng của cô với DAS vô hiệu lực bởi vì DAS là công ty quản lý không giấy phép khi kiếm việc cho cô ở California, nơi chỉ có các công ty có giấy phép mới được làm.[35] Vụ án kết thúc vào năm 2012 trước khi album thứ hai của cô được phát hành.[36] Kesha tổ chức một buổi lưu diễn từ thiện vào ngày 16 tháng 6, năm 2010 cho nạn nhân của nạn lũ vào tháng 5 ở Tennessee từ quê hương của mình là Nashville.[37] Cô thu về hơn 70,000 đô từ sự kiện này.[6] Cô là ca sĩ mở màn cho tour lưu diễn Last Girl on Earth ở Bắc Mỹ của Rihanna và được Giải Âm nhạc châu Âu của MTV trao tặng giải thưởng cho Nghệ sĩ mới xuất sắc nhất vào năm 2010.[38][39]

Kesha biểu diễn tại tour lưu diễn Get Sleazy (2011).

Vào tháng 11 năm 2010, Animal được phát hành lại kèm theo đĩa mở rộng, Cannibal.[40] Đĩa đơn đầu tiên từ Cannibal, "We R Who We R" xuất hiện lần đầu tiên trên Billboard Hot 100 tại vị trí đầu bảng.[41] Với hai đĩa đơn quán quân và bốn bài hit top ten, Kesha được Billboard ghi tên ở vị trí đầu tiên trên danh sách Hot 100 Artist, trong khi đó "Tik Tok" đứng đầu bảng xếp hạng cuối năm.[42] Đĩa đơn tiếp theo từ Cannibal, "Blow" lọt vào top ten của Hot 100. Khoảng tháng 6 năm 2011, lượt tải các đĩa đơn của cô trên mạng lên tới gần 21 triệu, chỉ riêng tại nước Mỹ.[43] Vào tháng 2 năm 2011, Kesha bắt đầu tour lưu diễn toàn cầu đầu tiên, Get Sleazy.[44] Tour lưu diễn được mở rộng ra thêm vào mùa hè, vì lý do cháy vé, tổng cộng tour đi qua ba châu lục.[45] Kesha cũng đồng sáng tác ca khúc "Till the World Ends" cho ca sĩ Britney Spears và cô xuất hiện trên phiên bản remix của bài hát cùng với rapper Nicki Minaj. Sau khi gặp gỡ Kesha tại lễ trao giải Grammy năm 2010 và tham dự các buổi biểu diễn của cô, ca sĩ nhạc rock Alice Cooper mời cô viết nhạc và hát trên ca khúc, "What Baby Wants", có trên album của anh, Welcome 2 My Nightmare.[46]

Kesha được ghi danh là đại sứ toàn cầu đầu tiên của Hội Nhân đạo Hoa Kỳ về quyền động vật, mà cô được mong đợi là sẽ lấy được sự chú ý của mọi người về vấn đề thử nghiệm mỹ phẩm trên động vật và săn bắt cá mập.[47] Cô cũng xuất hiện cùng với ca sĩ nhạc rock Iggy Pop trong một chiến dịch của PETA, phản đối việc ngược đãi hải cẩu con ở Canada và sau đó viết thư cho tập đoàn kinh doanh hệ thống nhà hàng thức ăn nhanh McDonald's về cơ sở giết mổ của họ.[48][49]

2012–nay: Warrior

[sửa | sửa mã nguồn]
Kesha tại Today Show (2012).

Album phòng thu thứ hai của Kesha, Warrior được phát hành vào ngày 30 tháng 11, năm 2012. Cô bắt đầu viết nhạc cho album kể từ khi đi lưu diễn trên tour vào năm 2011. Album có Dr. Luke và Max Martin đảm nhận phần sản xuất,[50] cùng với một bài hát của Wayne Coyne, ca sĩ chính của nhóm nhạc alternative Flaming Lips.[51] Coyne liên lạc để hợp tác với Kesha khi biết cô rất hâm mộ ban nhạc của anh.[52] Ngoài công việc cho album của Kesha, họ còn thu âm bài hát "2012 (You Must Be Upgraded)" cho album của họ, The Flaming Lips and Heady Fwends. Đĩa đơn đầu tiên từ Warrior là "Die Young".[53] Bài hát xuất hiện lần đầu trên Billboard Hot 100 ở hạng thứ mười ba và sau đó đạt tới vị trí á quân.[54][55] Bài hát cũng có mặt trên các bảng xếp hạng tại châu Âu và Văn hóa quyển tiếng Anh, lọt vào top ten tạ Úc, Canada, và Đan Mạch.[56] Cùng thời gian phát hành album, Kesha phát hành một quyển tự truyện bằng tranh, My Crazy Beautiful Life do Touchstone Books xuất bản vào tháng 11. Sau đó, một sê-ri phim tài liệu mang tên Ke$ha: My Crazy Beautiful Life sẽ được phát hành vào tháng 4 năm 2013 trên MTV.[57]

Ngày 7 tháng 10 năm 2013, Kesha và Pitbull phát hành đĩa đơn hợp tác có tựa đề "Timber" do Dr. Luke sản xuất. Bài hát thành công lớn về mặt thương mại trên toàn cầu, trở thành đĩa đơn #1 thứ ba và đĩa đơn nằm trong top 10 thứ mười một của cô trên bảng xếp hạng Hot 100.[58]

2017 - nay: Rainbow

[sửa | sửa mã nguồn]

Tiếp nối 2 album AnimalWarrior, album thứ ba của Kesha với tên Rainbow được ra mắt vào ngày 11 tháng 8 năm 2017. Tuy nhiên, album này mang một phong cách hoàn toàn khác so với hai album trước. Rainbow là một chương hoàn toàn khác. Sau vụ kiện với Dr. Luke, có lẽ Kesha, theo như nhiều người nghĩ, không thể đứng lên được. Nhưng với sự trợ giúp của nhiều người như bạn trai cô - Brad, anh trai - Lagan Sebert, Ben Fold, mẹ cô, Pebe Sebert, Cara Salimando, Tonny Price,... và nhiều người khác với những sự trợ giúp mà ta không thể kể hết, Kesha đã trở lại đầy ngoạn mục trong một phong cách nhạc mới, không kém phần hay cũng như những ý nghĩa. Nhiều bài hát trong Rainbow có điểm chung là chúng là những lời động viên với những người cô độc, rằng không phải họ bị ruồng bỏ, mà họ thuộc về một thế giới khác; hay lời khuyên với mọi người rằng dù gì thì mọi thứ sẽ trở nên tốt đẹp hơn. Album đã đứng đầu top 200 của Billboard, đứng đầu Itunes của nhiều quốc gia

Ngoài ra, cô còn hợp tác với Macklemore trong bài hát good old days thuộc album Gemini

Rainbow Tour bắt đầu vào ngày 15 tháng 9 và kết thúc vào ngày 1 tháng 11.

Phong cách nghệ thuật

[sửa | sửa mã nguồn]

Âm nhạc

[sửa | sửa mã nguồn]

Kesha tự sáng tác hết tất cả các ca khúc trong album của cô và cô cũng xem bản thân mình là một nhạc sĩ,[59] cô còn viết nhạc cho các ca sĩ khác như Britney Spears và Miley Cyrus.[50] Cô sở hữu một giọng rung khỏe,[31] với khả năng có thể đổi từ giọng trầm sang cao (kỹ thuật yodel);[60] cô thực sự áp dụng kỹ thuật đó trên các bài hát như, "Tik Tok" và "Cannibal".[61][62] Đã từng trải nghiệm nhạc đồng quê, pop rock, và nhạc điện tử,[63] cô chọn thể loại electro-pop cho album đầu tay của cô.[24] Thể loại này lúc đó đang rất thịnh hành, phổ biến trên thị trường âm nhạc.[32] Cả hai album của cô đều có hook và phần sản xuất rất "điện tử" làm người nghe nhớ đến nhạc trong video game thời Nintendo,[31][64][65] đồng thời cũng có một số âm hưởng từ các thể loại khác.[64] "Party at a Rich Dude's House" và "C U Next Tuesday" lấy cảm hứng từ âm nhạc thập niên 80,[64][66] trong khi đoạn mở đầu của "Stephen" lại là giọng hòa âm kiểu "Kansas".[67] Giọng hát của cô trong các ca khúc trên album hầu hết được sử dụng auto-tune mạnh, thường là những đoạn lặp nhiều hay hiệu ứng chỉnh độ cao, điều này làm người nghe đặt ra nhiều nghi vấn về chất giọng thật của cô,[68] nhưng cô vẫn rất tự tin với khả năng của mình.[69] Kesha còn có một phong cách hát giọng nửa rap nửa hát với những từ ngữ khó nghe.[31][63] Và điều này làm cô được xem là một rapper, trong một cuộc nói chuyện, cô nói: "Tôi bật cười khi lần đầu tiên nghe ai đó gọi tôi là một rapper. Tôi thực sự rất sốc, và nghĩ nó rất nực cười và điên rồ."[70] The New York Times nói rằng Kesha: "đang trên đường trở thành một nữ rapper có tầm ảnh hưởng lớn nhất, hoặc có thể là thành công nhất."[71] Hầu hết lời nhạc của cô nói về những mối quan hệ và tiệc tùng thâu đêm; điều này cùng với việc sử dụng ngôn từ không được trau chuốt làm âm nhạc của cô bị các nhà phê bình đánh giá là thô thiển và đần độn.[33] Jonah Weiner của tạp chí Slate, lại cho rằng điều đó làm âm nhạc của cô đáng nhớ hơn.[31] Trong ca khúc "Blah Blah Blah" và "Boots and Boys", cô cho rằng đàn ông phải mời gọi phụ nữ chứ không phải ngược lại.[1][16] Bài hát cùng tên với album, "Animal", thì rất bay bổng và mang mục đích truyền cảm hứng cho mọi người để đề cao và trân trọng cá tính riêng biệt của họ.[72] Thực nghiệm hơn Animal, trong album thứ hai của cô, Warrior, có âm hưởng dubstep và khám phá về một trải nghiệm rất tình tứ của Kesha với những hồn ma trên bài hát có tên, "Supernatural".[73][74][75] Nhìn chung, Kesha tiết lộ chủ đề của Warriorma thuật.[76]

Nguồn cảm hứng

[sửa | sửa mã nguồn]
Kesha biểu diễn tại Get Sleazy Tour (2011).

Kesha lấy cảm hứng từ các thể loại như hip-hop, punk rock, pop thập niên 80, nhạc dancenhạc đồng quê cổ điển.[77] David Jeffries của Allmusic xem thể loại nhạc của Kesha là "crunkcore" khi nói về phần góp giọng của cô trên album của 3OH!3, Streets of Gold.[78] Về nhạc đồng quê, các ca sĩ như Dolly PartonJohnny Cash đều là nguồn cảm hứng cho cô khi mẹ cô chuyên viết nhạc thể loại này, anh trai của cô thì đưa cô đến với các ban nhạc hip-hop và punk như, Fugazi, Dinosaur Jr.Beastie Boys.[22][79][80] Cô thường lấy cảm hứng từ Beck, Queen, Led Zeppelin, Madonna, Aaron Neville, Britney Spears, Bob Dylan, The Damned, Velvet Underground, Blondie và nghệ sĩ graffiti, Banksy.[81][82][83][84] Cô kể những câu chuyện tình trong lời nhạc của cô, rất thành thật và mộc mạc, thường thấy ở nhạc đồng quê,[80] trong khi bài hát cùng tên với album đầu tay thì được tạo nên với âm hưởng từ các ban nhạc alternative rock như Flaming LipsArcade Fire.[11] Cô xem Beastie Boys là một nguồn cảm hứng mãnh liệt, khi nói với tờ Newsweek rằng cô hằng mong muốn được giống họ và tạo ra những ca khúc "trẻ trung và ngông cuồng".[10] Cô gọi album đầu tay, Animal là một vật tặng để tỏ lòng kính trọng đến album Licensed to Ill của Beastie Boys và nhạc rap của họ đã truyền cảm hứng cho "Tik Tok".[63][81] Về chuyến lưu diễn quảng bá của mình, Kesha muốn học hỏi từ những màn trình diễn của Iggy Pop.[85] Cô liệt kê album của ông, The Idiot cùng với Led ZeppelinAC/DC là nguồn cảm hứng tạo nên album thứ hai, Warrior, mang âm hưởng nhạc rock những năm 70.[50] Dẫn đến việc họ hợp tác trong một bài hát trên Warrior.

Cô còn lấy cảm hứng từ những bộ phim cổ điển. Phần trang điểm của cô trên sân khấu đều có một bên mắt được tô vẽ bằng kim tuyến nhiều màu, giống trong phim A Clockwork Orange.[86] Video ca nhạc cho "Your Love is My Drug" có những phân đoạn hoạt hình lấy cảm hứng từ bộ phim của The Beatles, Yellow Submarine,[87] trong khi chuyến lưu diễn Get Sleazy được mô tả là khá giống với phong cách của Mad Max."[85]

Danh sách đĩa nhạc

[sửa | sửa mã nguồn]

Danh sách các chuyến lưu diễn

[sửa | sửa mã nguồn]

Quảng bá

Mở màn

Danh sách các phim đã đóng

[sửa | sửa mã nguồn]
Phim
Năm Tưạ đề Vai diễn Ghi chú
2005 Bravo Supershow Bản thân
2012 Katy Perry: Part of Me Bản thân Một cảnh quay ngắn
Truyền hình
Năm Tựa đề Vai diễn Ghi chú
2005 The Simple Life Bản thân "Wedding Planner" (Mùa 3, Tập 15)
2010 Saturday Night Live Khách mời âm nhạc "Ryan Phillippe/Ke$ha" (Mùa 35, Tập 19)
The City Bản thân "One Girl's Trash..." (Mùa 2, Tập 9)
2011 Victorious Bản thân "Ice Cream for Ke$ha" (Mùa 2, Tập 3)
2012 The X Factor Úc[88] Giám khảo khách mời Mùa 4
2013 Robot Chicken Rôbốt "Papercut to Aorta" (Mùa 6, Tập 14)
2013 Ke$ha: My Crazy Beautiful Life[57] Bản thân Vai chính, phim tài liệu

Các giải thưởng và đề cử

[sửa | sửa mã nguồn]
Năm Sự kiện Hạng mục Đề cử Kết quả
2010 Giải thưởng Âm nhạc Mỹ[89][90] Nghệ sĩ của năm Kesha Đề cử
Nghệ sĩ nữ được yêu thích nhất Kesha Đề cử
Nghệ sĩ đột phá của T-Mobile Kesha Đề cử
Premios 40 Principales[91] Nghệ sĩ quốc tế xuất sắc nhất Kesha Đề cử
Giải Âm nhạc châu Âu của MTV[92] Nghệ sĩ mới xuất sắc nhất Kesha Đoạt giải
Nghệ sĩ Push xuất sắc nhất Kesha Đề cử
Giải Video âm nhạc của MTV[93] Nghệ sĩ mới xuất sắc nhất "Tik Tok" Đề cử
Video xuất sắc nhất của nữ ca sĩ "Tik Tok" Đề cử
Video Pop xuất sắc nhất "Tik Tok" Đề cử
Video hợp tác xuất sắc nhất "My First Kiss" Đề cử
Giải Video âm nhạc của MTV tại Brazil Nghệ sĩ đột phá xuất sắc nhất Kesha Đề cử
Giải Nickelodeon: Sự lựa chọn của giới trẻ[94] Ca khúc được yêu thích "Tik Tok" Đề cử
Premios 40 Principales[91] Ca khúc quốc tế xuất sắc nhất "Tik Tok" Đề cử
Giải Video âm nhạc của MuchMusic[95] Video quốc tế xuất sắc nhất "Tik Tok" Đề cử
Video quốc tế được yêu thích xuất sắc nhất "Tik Tok" Đề cử
Giải thưởng âm nhạc Eska[96] Nghệ sĩ mới xuất sắc nhất Kesha Đoạt giải
Giải Sự lựa chọn của công chúng[97] Ca sĩ đột phá được yêu thích nhất Kesha Đề cử
Billboard[98]
2010's Top New Artist Kesha Đoạt giải
2010's Hot 100 Artist Kesha Đoạt giải
2010's Digital Songs Artist Kesha Đoạt giải
2010's Pop Song Artist Kesha Đoạt giải
2010's Canadian Hot 100 Artist Kesha Đoạt giải
Giải Sự lựa chọn của Giới trẻ[99] Nghệ sĩ nữ xuất sắc nhất Kesha Đề cử
Nghệ sĩ nữ đột phá Kesha Đề cử
Ngôi sao âm nhạc mùa hè Kesha Đề cử
Album nhạc Pop mùa hè Animal Đề cử
Đĩa đơn mùa hè "Your Love Is My Drug" Đề cử
Ca khúc mùa hè "Your Love Is My Drug" Đề cử
2011
Giải âm nhạc thế giới[100] Nghệ sĩ mới xuất sắc nhất Kesha Đề cử
Giải thưởng Echo[101] Nghệ sĩ mới quốc tế thành công nhất trong năm Kesha Đề cử
Giải thưởng âm nhạc NRJ Nghệ sĩ mới được khám phá Kesha Đề cử
Giải thưởng Shockwaves NME[102] Ngôi sao kém thời trang nhất Kesha Đề cử
Giải thưởng Video âm nhạc của MuchMusic Video được xem nhiều nhất trên MuchMUSIC.COM "Take Off" Đề cử
"Your Love Is My Drug" Đề cử
Giải thưởng nhạc Dance quốc tế[103] Ca khúc Pop Dance xuất sắc nhất "Your Love Is My Drug" Đề cử
Giải thưởng Juno[104] Album quốc tế của năm Animal Đề cử
Giải thưởng âm nhạc Billboard[105] Album nhạc Pop hàng đầu Animal Đề cử
Nghệ sĩ mới hàng đầu Kesha Đề cử
Nghệ sĩ nữ hàng đầu Kesha Đề cử
Nghệ sĩ nhạc pop toàn cầu Kesha Đề cử
Nghệ sĩ thống trị bảng xếp hạng Hot 100 Kesha Đề cử
Nghệ sĩ thống trị bảng xếp hạng Hot Digital Songs Kesha Đề cử
Giải thưởng nhạc Pop của BMI[106] Ca khúc xuất sắc "Tik Tok" Đoạt giải
"Your Love Is My Drug" Đoạt giải
2012 Giải âm nhạc ARIA Nghệ sĩ quốc tế nổi tiếng nhất Kesha Đề cử
Giải thưởng Libby của PETA[107] Nghệ sĩ Pop/Hip-hop thân thiện với động vật nhất Kesha Đoạt giải
Chiến dịch peta2 xuất sắc nhất Kesha Đề cử
Giải thưởng nhạc Pop của BMI[108] Ca khúc xuất sắc "We R Who We R" Đoạt giải
"Blow" Đoạt giải
"Till The World Ends" Đoạt giải
Giải thưởng chứng nhận của VEVO 100.000.000 lượt xem "Tik Tok" Đoạt giải
Giải Âm nhạc châu Âu của MTV Màn trình diễn World Stage xuất sắc nhất Kesha Đề cử
2013 Giải Âm nhạc Quốc tế Nghệ sĩ nữ xuất sắc nhất Kesha Chưa công bố
Nghệ sĩ xuất sắc nhất Kesha Chưa công bố
Bài hát xuất sắc nhất "Die Young" Chưa công bố

Chú thích

[sửa | sửa mã nguồn]
  1. ^ a b c d e f Day, Elizabeth (ngày 29 tháng 11 năm 2010). “She's a walking, talking living dollar”. The Guardian. UK. Truy cập ngày 29 tháng 11 năm 2010.
  2. ^ Axelrod, Nick (ngày 26 tháng 8 năm 2009). “Kesha Sebert: Hard Candy”. Women's Wear Daily. Fairchild Fashion Group. Truy cập ngày 20 tháng 10 năm 2010.
  3. ^ Still, Jennifer. “Ke$ha dad: 'She lied about knowing me'. Digital Spy. Hearst Magazines. Bản gốc lưu trữ ngày 9 tháng 5 năm 2013. Truy cập ngày 18 tháng 9 năm 2012.
  4. ^ "Potrafię imprezować naprawdę mocno" (rozmowa z Keshą)”. Wirtualna Polska. ngày 15 tháng 1 năm 2010. Truy cập ngày 23 tháng 7 năm 2011.
  5. ^ Stransky, Tanner (ngày 21 tháng 1 năm 2010). “Ke$ha tells us all kinds of awesome, crazy stuff: 'Have I made out with chicks? Hell yeah.'. Entertainment Weekly. Truy cập ngày 31 tháng 5 năm 2011.
  6. ^ a b Castillo, Michelle (ngày 12 tháng 8 năm 2010). “Kesha – from band geek to life of the party”. MSNBC. Bản gốc lưu trữ ngày 18 tháng 12 năm 2010. Truy cập ngày 13 tháng 8 năm 2010.
  7. ^ a b “Superstar Kesha Tops Charts”. NPR. ngày 16 tháng 1 năm 2010. Truy cập ngày 29 tháng 1 năm 2010.
  8. ^ Greenblatt, Leah (ngày 7 tháng 9 năm 2010). “Kesha before the $: See the high school footage unearthed on YouTube”. Entertainment Weekly. Bản gốc lưu trữ ngày 16 tháng 1 năm 2011. Truy cập ngày 2 tháng 1 năm 2011.
  9. ^ a b Rubell, Roxanne (tháng 2 năm 2010). “Untamed”. Venice Magazine. Truy cập ngày 23 tháng 7 năm 2011.
  10. ^ a b c d e Ali, Lorraine (ngày 7 tháng 10 năm 2010). “The Anti-Gaga”. Newsweek. The Newsweek/Daily Beast Company LLC. Truy cập ngày 31 tháng 5 năm 2011.
  11. ^ a b c Scaggs, Austin (ngày 26 tháng 1 năm 2010). “Party Animal: Behind Ke$ha's Big Debut”. Rolling Stone. Truy cập ngày 31 tháng 5 năm 2011.
  12. ^ Barnett, Sophie (ngày 24 tháng 3 năm 2010). “MTV Fashion File: Kesha”. Bản gốc lưu trữ ngày 29 tháng 3 năm 2010. Truy cập ngày 9 tháng 4 năm 2010.
  13. ^ a b Lynch, Joseph (ngày 11 tháng 12 năm 2009). “Kesha: A Music Mix Q&A”. Entertainment Weekly. Bản gốc lưu trữ ngày 14 tháng 1 năm 2010. Truy cập ngày 12 tháng 12 năm 2009.
  14. ^ “Wedding Planner”. The Simple Life. Mùa 3. Tập 15. ngày 12 tháng 5 năm 2005. Fox.
  15. ^ a b c d e f Werde, Bill (ngày 19 tháng 2 năm 2010). “Kesha: The Billboard Cover Story”. Billboard. Truy cập ngày 28 tháng 2 năm 2010.
  16. ^ a b c Stevenson, Jane. “Pop sensation Ke$ha gutsy, fearless”. QMI Agency. Truy cập ngày 30 tháng 12 năm 2010.
  17. ^ a b c Peltz, Jennifer (ngày 28 tháng 5 năm 2010). “Pop star Kesha sued by former managers in NYC”. Huffington Post. Associated Press. Truy cập ngày 23 tháng 6 năm 2010.
  18. ^ Moses, Hussein (ngày 9 tháng 12 năm 2009). “Kesha Hearts NZ!”. MTV. Bản gốc lưu trữ ngày 19 tháng 7 năm 2011. Truy cập ngày 26 tháng 10 năm 2009.
  19. ^ a b Sullivan, Matt (ngày 13 tháng 8 năm 2009). “Kesha and the Not-Quite-72 Virgins in Her Own Personal Heaven”. Esquire. Hearst Communications, Inc. Bản gốc lưu trữ ngày 15 tháng 11 năm 2010. Truy cập ngày 20 tháng 10 năm 2009.
  20. ^ a b Gordon, Sandra (ngày 25 tháng 11 năm 2009). “Breaking & Entering: Kesha”. Billboard. Truy cập ngày 26 tháng 11 năm 2009.
  21. ^ Levine, Nicke (ngày 13 tháng 11 năm 2009). “Interview – Kesha”. Digital Spy Limited. Bản gốc lưu trữ ngày 15 tháng 11 năm 2009. Truy cập ngày 13 tháng 11 năm 2009.
  22. ^ a b Mazzella, Alysia (ngày 9 tháng 3 năm 2009). “Kesha: Crazy, Sexy & Too Fuckin' Cool”. 21–7 Magazine. Bản gốc lưu trữ ngày 22 tháng 2 năm 2011. Truy cập ngày 9 tháng 11 năm 2009.
  23. ^ a b “Meet "Tik Tok" Singer Ke$ha”. Seventeen. Hearst Communications, Inc. ngày 11 tháng 1 năm 2010. Bản gốc lưu trữ ngày 24 tháng 4 năm 2010. Truy cập ngày 16 tháng 1 năm 2010.
  24. ^ a b Willman, Chris (ngày 3 tháng 9 năm 2010). “Dr. Luke: The Billboard Cover Story”. Billboard. Truy cập ngày 31 tháng 5 năm 2011.
  25. ^ Edgecliffe-Johnson, Andrew (ngày 24 tháng 3 năm 2010). “How to create a chart-topper”. Financial Times. Bản gốc lưu trữ ngày 16 tháng 6 năm 2013. Truy cập ngày 24 tháng 4 năm 2010.
  26. ^ “Ke$ha Animal + Cannibal – Special Edition – ALBUM”. Columbia Records UK. Sony Music Entertainment. Bản gốc lưu trữ ngày 23 tháng 1 năm 2013. Truy cập ngày 18 tháng 9 năm 2012.
  27. ^ Pietroluongo, Silvio (ngày 30 tháng 12 năm 2009). “Ke$ha Sets Female Download Record”. Billboard.biz. Prometheus Global Media. Bản gốc lưu trữ ngày 4 tháng 3 năm 2012. Truy cập ngày 3 tháng 3 năm 2012.
  28. ^ “Tik Tok continues record-breaking run”. Rolling Stone. ngày 12 tháng 2 năm 2010. Truy cập ngày 12 tháng 2 năm 2010.
  29. ^ “Kesha > Charts & Awards > Billboard Singles”. Allmusic. Truy cập ngày 7 tháng 4 năm 2010.
  30. ^ Fekadu, Mesfin (ngày 30 tháng 6 năm 2010). “Kesha wants to be more than pop's party girl”. Huffington Post. Associated Press. Truy cập ngày 1 tháng 7 năm 2010.
  31. ^ a b c d e f Weiner, Jonah (ngày 7 tháng 12 năm 2010). “Make It $top”. Slate. The Slate Group, LLC. Truy cập ngày 25 tháng 9 năm 2011.
  32. ^ a b Venerable, Dana. “Ke$ha album lacks variety, novelty”. The Dartmouth. The Dartmouth, Inc. Bản gốc lưu trữ ngày 2 tháng 2 năm 2013. Truy cập ngày 18 tháng 9 năm 2012.
  33. ^ a b Cairns, Dan (ngày 7 tháng 3 năm 2010). “Kesha demands a pinch of respect and mirth”. London: Times Newspapers Ltd. Bản gốc lưu trữ ngày 15 tháng 6 năm 2011. Truy cập ngày 11 tháng 3 năm 2010.
  34. ^ Elan, Priya (ngày 20 tháng 3 năm 2010). “Tik Tok: Ke$ha's time in the spotlight may already be running out”. Guardia. London: Guardian News and Media Limited. Truy cập ngày 3 tháng 8 năm 2011.
  35. ^ Bellon, Matthew (ngày 5 tháng 10 năm 2010). “Ke$ha Blasts Former Manager in Legal Dispute”. Billboard. Truy cập ngày 15 tháng 11 năm 2010.
  36. ^ “Ke$ha Settles Lawsuit With Former Managers - ARTISTdirect News”. Bản gốc lưu trữ ngày 13 tháng 12 năm 2012. Truy cập ngày 17 tháng 2 năm 2013.
  37. ^ “Kesha Announces Nashville Flood Benefit Concert”. Sony Music Entertainment. ngày 17 tháng 6 năm 2010. Bản gốc lưu trữ ngày 7 tháng 10 năm 2010. Truy cập ngày 23 tháng 6 năm 2010.
  38. ^ Concepcion, Mariel (ngày 6 tháng 4 năm 2010). “Rihanna Announces Tour With Nicki Minaj, Kesha”. Billboard. Truy cập ngày 26 tháng 6 năm 2010.
  39. ^ Montogomery, James (ngày 8 tháng 11 năm 2010). “Ke$ha Says EMA Is 'The First Thing I've Ever Won'. MTV (MTV Networks). Bản gốc lưu trữ ngày 11 tháng 12 năm 2010. Truy cập ngày 7 tháng 12 năm 2010.
  40. ^ Montgomery, James (ngày 13 tháng 10 năm 2010). “Kesha To Return With Cannibal On November 22. Animal companion will feature eight new songs”. MTV. Bản gốc lưu trữ ngày 16 tháng 10 năm 2010. Truy cập ngày 13 tháng 10 năm 2010.
  41. ^ Greenblatt, Leah (ngày 3 tháng 11 năm 2010). “Ke$ha's 'We R Who We R' debuts at No. 1 on 'Billboard' Hot 100”. Entertainment Weekly. Bản gốc lưu trữ ngày 7 tháng 12 năm 2010. Truy cập ngày 15 tháng 11 năm 2010.
  42. ^ Wood, Mikael (ngày 10 tháng 12 năm 2010). “Ke$ha: Billboard's Q&A with the Hot 100 Artist of the Year”. Billboard. Rovi Corporation. Bản gốc lưu trữ ngày 11 tháng 11 năm 2012. Truy cập ngày 23 tháng 8 năm 2011.
  43. ^ Molanphy, Chris (ngày 29 tháng 6 năm 2011). “Introducing the Queen of Pop”. Rolling Stone. Truy cập ngày 12 tháng 7 năm 2011.
  44. ^ Vick, Megan (ngày 9 tháng 11 năm 2010). “Kesha to 'Get Sleazy' on First Headlining Tour”. Billboard. Truy cập ngày 27 tháng 11 năm 2010.
  45. ^ Montgomery, James (ngày 4 tháng 4 năm 2011). “Kesha Extends Get Sleazy Tour 'I'm pulling out an ass-ton more glitter with blue lipstick to spare,' singer says of added North American dates”. MTV News. MTV Networks (Viacom). Bản gốc lưu trữ ngày 6 tháng 4 năm 2011. Truy cập ngày 4 tháng 4 năm 2011.
  46. ^ Paul Lester (ngày 6 tháng 10 năm 2011). “Ke$ha: 'You don't tell Alice Cooper what to do' | Music”. The Guardian. UK. Truy cập ngày 5 tháng 11 năm 2011.
  47. ^ “Ke$ha Goes Global For The Animals as Humane Society Ambassador”. Act.mtv.com. ngày 10 tháng 10 năm 2011. Bản gốc lưu trữ ngày 29 tháng 5 năm 2012. Truy cập ngày 5 tháng 11 năm 2011.
  48. ^ “Ke$ha, Iggy Pop Team Up With PETA To Fight Baby Seal Massacre In Canada (PHOTOS/GRAPHIC VIDEO)”. Huffington Post. ngày 14 tháng 4 năm 2011. Truy cập ngày 5 tháng 11 năm 2011.
  49. ^ “[EXCLUSIVE] Ke$ha & McDonald's Clash Over Animal Welfare”. Act.mtv.com. ngày 14 tháng 10 năm 2011. Bản gốc lưu trữ ngày 6 tháng 6 năm 2012. Truy cập ngày 5 tháng 11 năm 2011.
  50. ^ a b c Corner, Lewis (ngày 4 tháng 7 năm 2011). “Ke$ha interview: "I want to be f**king perfect". Digital Spy Limited. Truy cập ngày 7 tháng 7 năm 2011.
  51. ^ “Snippets From Kesha + Wayne Coyne Collabo 'You Control My Heart' Released”. Popcrush.com. ngày 18 tháng 4 năm 2012. Truy cập ngày 27 tháng 5 năm 2012.
  52. ^ “Wayne Coyne Talks New Flaming Lips LP, Working With Ke$ha, Blood | News”. Pitchfork. ngày 5 tháng 4 năm 2012. Bản gốc lưu trữ ngày 23 tháng 8 năm 2013. Truy cập ngày 27 tháng 5 năm 2012.
  53. ^ James, Nicole. “Ke$ha Announces New Single, "Die Young". Fuse. Madison Square Garden, Inc.
  54. ^ Trust, Gary. “PSY Still Stuck At No. 2 as Maroon 5 Tops Hot 100 - "One More Night" spends a fifth week in the top spot, while Ke$ha crashes the Top 10”. Billboard. Prometheus Global Media. Truy cập ngày 17 tháng 10 năm 2012.
  55. ^ Trust, Gary (ngày 24 tháng 10 năm 2012). “Maroon 5 Spend 'One More' Week Atop Hot 100”. Billboard. Prometheus Global Media. Truy cập ngày 24 tháng 10 năm 2012.
  56. ^ “Ultratop.be – Ke$ha – Die Young” (bằng tiếng Hà Lan). Ultratop 50. Ultratop & Hung Medien / hitparade.ch. Truy cập ngày 22 tháng 10 năm 2012. Đã bỏ qua văn bản “Hà Lan]]” (trợ giúp)
  57. ^ a b “Ke$ha Brings 'My Crazy Beautiful Life' To MTV: Watch A Preview!”. Bản gốc lưu trữ ngày 22 tháng 10 năm 2013. Truy cập ngày 18 tháng 2 năm 2013.
  58. ^ “Ke$ha And Pitbull Join Forces On Future Classic "Timber". Idolator. Truy cập ngày 1 tháng 12 năm 2013.[liên kết hỏng]
  59. ^ Vena, Jocelyn (ngày 28 tháng 4 năm 2011). “Ke$ha Wants 'Till The World Ends' Remix To 'Take Over Airwaves'. MTV Networks. Bản gốc lưu trữ ngày 30 tháng 4 năm 2011. Truy cập ngày 7 tháng 7 năm 2011.
  60. ^ Bhansali, Akshay (ngày 31 tháng 3 năm 2010). “Ke$ha's Singing Is 'Awesome,' Taio Cruz Says”. MTV Networks. Bản gốc lưu trữ ngày 24 tháng 6 năm 2012. Truy cập ngày 1 tháng 8 năm 2011.
  61. ^ Lester, Paule (ngày 2 tháng 10 năm 2009). “Ke$ha (No 640)”. The Guardian. UK: Guardian News and Media Limited. Truy cập ngày 25 tháng 9 năm 2011.
  62. ^ Vena, Jocelyn (ngày 5 tháng 11 năm 2010). “Ke$ha Is A 'Cannibal' On Her New Track”. MTV Networks. Bản gốc lưu trữ ngày 8 tháng 3 năm 2011. Truy cập ngày 25 tháng 9 năm 2011.
  63. ^ a b c Caramanica, Jon (ngày 23 tháng 12 năm 2009). “Changing the Face (and Sound) of Rap”. The New York Times. Truy cập ngày 26 tháng 12 năm 2009.
  64. ^ a b c Jeffries, David. “Animal Review”. allmusic. Truy cập ngày 24 tháng 3 năm 2010.
  65. ^ Erlewine, Stephen. “Cannibal”. Allmusic. Truy cập ngày 31 tháng 5 năm 2011.
  66. ^ Lamb, Bill. “Kesha "Cannibal". About.com. Bản gốc lưu trữ ngày 15 tháng 3 năm 2011. Truy cập ngày 4 tháng 1 năm 2011.
  67. ^ Norman, Ben. “Ke$ha – Animal”. About.com. Bản gốc lưu trữ ngày 15 tháng 6 năm 2011. Truy cập ngày 22 tháng 1 năm 2011.
  68. ^ Herrera, Monica (ngày 5 tháng 1 năm 2010). “Kesha, "Animal". Billboard. Truy cập ngày 17 tháng 5 năm 2010.
  69. ^ Abebe, Nitsuh (ngày 14 tháng 10 năm 2010). “Ke$ha: 'I Have a Really Good Voice'. New York Magazine. New York Media LLC. Truy cập ngày 4 tháng 6 năm 2011.
  70. ^ Romero, Angie. “Ke$ha Covers VIBE Magazine, Makes History As First Solo White Living Female To Do So”. ABC. The Walt Disney Company. Truy cập ngày 16 tháng 10 năm 2012.
  71. ^ Caramanica, Jon. “Gaining an Edge in Female Rap Race”. The New York Times. The New York Times Company. Truy cập ngày 12 tháng 1 năm 2013.
  72. ^ French, Dan (ngày 1 tháng 3 năm 2010). “Ke$ha”. Digital Spy. Digital Spy Limited. Bản gốc lưu trữ ngày 28 tháng 7 năm 2011. Truy cập ngày 5 tháng 6 năm 2011.
  73. ^ “Ke$ha says she had 'sexy' experiences with a ghost: Who is the most 'out there' celebrity?”. Fox News. News Corporation. Truy cập ngày 17 tháng 10 năm 2012.
  74. ^ “Ke$ha Admits To Having Sex With A Ghost”. MTV. Viacom. Bản gốc lưu trữ ngày 5 tháng 1 năm 2013. Truy cập ngày 17 tháng 10 năm 2012.
  75. ^ “Ke$ha reveals she had sex with a ghost”. NME. IPC Media. Truy cập ngày 17 tháng 10 năm 2012.
  76. ^ “Ke$ha Says She Had Sex With A Ghost”. The Huffington Post. AOL. Truy cập ngày 17 tháng 10 năm 2012.
  77. ^ Collins, Leah (ngày 20 tháng 1 năm 2010). “Interview: Ke$ha's Appetite for Construction”. Dose.ca. Cananda.com. Bản gốc lưu trữ ngày 15 tháng 4 năm 2012. Truy cập ngày 31 tháng 5 năm 2011.
  78. ^ Jeffries, David. “Streets of Gold”. Allmusic. Rovi Corporation. Truy cập ngày 10 tháng 4 năm 2011.
  79. ^ Gardner, Elysa (ngày 30 tháng 6 năm 2010). 1 tháng 7 năm 2010-kesha01_ST_N.htm “Singer/rapper Ke$ha: 'Really fun,' yet serious” Kiểm tra giá trị |url= (trợ giúp). USA Today. Gannett Co. Inc. Truy cập ngày 31 tháng 5 năm 2011.
  80. ^ a b Montgomery, James (ngày 3 tháng 8 năm 2010). “Ke$ha Says She May Go Country 'One Day'. MTV Networks. Bản gốc lưu trữ ngày 24 tháng 6 năm 2012. Truy cập ngày 31 tháng 5 năm 2011.
  81. ^ a b Diehl, Matt. “Kesha”. Interview. Truy cập ngày 16 tháng 4 năm 2010.
  82. ^ Hess, Mike (ngày 11 tháng 1 năm 2010). “Kesha Can Handle Her Liquor and Success”. PopEater. AOL Inc. Bản gốc lưu trữ ngày 16 tháng 3 năm 2010. Truy cập ngày 24 tháng 3 năm 2010.
  83. ^ Kazemi, Alex (ngày 17 tháng 5 năm 2010). “Interview: Kesha”. Fashion Indie. Truy cập ngày 15 tháng 11 năm 2010.
  84. ^ “Ke$ha: 'I have 200 songs for my second album”. NME. UK. ngày 5 tháng 6 năm 2011. Truy cập ngày 17 tháng 7 năm 2011.
  85. ^ a b O'Donnell, Kevin (ngày 11 tháng 2 năm 2011). “Ke$ha Talks U.$. Tour: "It's an Epic Dance Party". Spin. Spin Media LLC. Truy cập ngày 31 tháng 5 năm 2010.
  86. ^ Stevenson, Jane. “Ke$ha: I dress like a 'wild animal'. QMI Agency. Truy cập ngày 15 tháng 11 năm 2010.
  87. ^ Montgomery, James (ngày 5 tháng 5 năm 2010). “Ke$ha Calls 'Your Love Is My Drug' Video 'A Psychedelic Trip Of The Mind'. Truy cập ngày 31 tháng 5 năm 2011.
  88. ^ [http://au.tv.yahoo.com/x-factor/video/-/watch/29984071/x-factor- special-announcement/ “X-Factor special announcement”] Kiểm tra giá trị |url= (trợ giúp). The X Factor (Australia). Yahoo! 7. Truy cập ngày 18 tháng 7 năm 2012. line feed character trong |publisher= tại ký tự số 7 (trợ giúp); line feed character trong |url= tại ký tự số 65 (trợ giúp)
  89. ^ Greenblatt, Lead. “Eminem, Lady Antebellum lead American Music Awards music nominations”. Entertainment Weekly. [http://music- mix.ew.com/2010/10/12/american-music-awards-nominees-2010/ Bản gốc] Kiểm tra giá trị |url= (trợ giúp) lưu trữ ngày 20 tháng 2 năm 2017. Truy cập ngày 12 tháng 10 năm 2010. line feed character trong |title= tại ký tự số 29 (trợ giúp); line feed character trong |url= tại ký tự số 14 (trợ giúp)
  90. ^ awards-nominees-announced-104786289.html 2010 American Music Awards®' Nominees Announced
  91. ^ a b [http://www.los40.com/videos/nominados-a-los- premios-40-principales-2010/video/1339951.aspx “Nominados a los Premios 40 Principales 2010- en los 40 principales”] Kiểm tra giá trị |url= (trợ giúp). Los40.com. Truy cập ngày 15 tháng 12 năm 2012. line feed character trong |url= tại ký tự số 45 (trợ giúp); line feed character trong |title= tại ký tự số 52 (trợ giúp)
  92. ^ “Katy Perry & Lady GaGa Lead EMAs Nominations”. ngày 20 tháng 9 năm 2010. Truy cập ngày 20 tháng 9 năm 2010. line feed character trong |title= tại ký tự số 13 (trợ giúp)
  93. ^ “Ke$ha Is 'So Grateful' For VMA Nominations”. ngày 3 tháng 8 năm 2010. Bản gốc lưu trữ ngày 26 tháng 5 năm 2013. Truy cập ngày 4 tháng 8 năm 2010. line feed character trong |title= tại ký tự số 31 (trợ giúp)
  94. ^ “Nominations page”. Bản gốc lưu trữ ngày 18 tháng 9 năm 2012. Truy cập ngày 19 tháng 2 năm 2013.
  95. ^ Satherley, Jessica. [http://www.dailymail.co.uk/tvshowbiz/article-1288103/Animalistic-Ke-ha-goes-primal-leopard-print-MMVA- rehearsal.html “Animalistic Ke$ha goes primal in leopard print during MMVA rehearsal”] Kiểm tra giá trị |url= (trợ giúp). Daily Mail. Associated Newspapers. Truy cập ngày 18 tháng 9 năm 2012. line feed character trong |url= tại ký tự số 103 (trợ giúp)
  96. ^ “ESKA MUSIC AWARDS 2010 – WINS NEWCOMER OF THE YEAR!”. KeshaDaily.com. Bản gốc lưu trữ ngày 3 tháng 12 năm 2013. Truy cập ngày 4 tháng 5 năm 2010. line feed character trong |title= tại ký tự số 18 (trợ giúp)
  97. ^ [http://www.keshasparty.com/us/news/keha-be- considered-2011-peoples-choice-awards “Ke$ha To Be Considered for 2011 People's Choice Awards | The Official Ke$ha Site”] Kiểm tra giá trị |url= (trợ giúp). Keshasparty.com. Truy cập ngày 5 tháng 11 năm 2011. line feed character trong |url= tại ký tự số 44 (trợ giúp); line feed character trong |title= tại ký tự số 55 (trợ giúp)[liên kết hỏng]
  98. ^ [http://www.billboard.com/news/lady-gaga-is-billboard-s-2010- artist-of-1004134049.story?tag=hpfeed#/news/lady-gaga-is-billboard-s-2010-artist-of-1004134049.story? tag=hpfeed “Lady Gaga is Billboards 2010 artist of the year”] Kiểm tra giá trị |url= (trợ giúp). billboard.com. Truy cập tháng 12 năm 2012. line feed character trong |url= tại ký tự số 61 (trợ giúp); Kiểm tra giá trị ngày tháng trong: |access-date= (trợ giúp)
  99. ^ Vena, Jocelyn. [http://www.mtv.com/news/articles/1641486/new-moon-miley- cyrus-justin-bieber-lead-teen-choice-nominees.jhtml “'New Moon,' Miley Cyrus, Justin Bieber Lead Teen Choice Nominees”] Kiểm tra giá trị |url= (trợ giúp). MTV. Viacom. Truy cập ngày 18 tháng 9 năm 2012. line feed character trong |title= tại ký tự số 25 (trợ giúp); line feed character trong |url= tại ký tự số 57 (trợ giúp)[liên kết hỏng]
  100. ^ [http://www.mynewsbooth.com/2010/05/19/2010-world-music- awards-winners/ “2010 World Music Awards Winners”] Kiểm tra giá trị |url= (trợ giúp). My News Booth. Truy cập ngày 10 tháng 7 năm 2010. line feed character trong |url= tại ký tự số 56 (trợ giúp)[liên kết hỏng]
  101. ^ Spahr, Wolfgang (ngày 10 tháng 3 năm 2011). [http://www.billboard.biz/bbbiz/industry/global/adele-bruno-mars- black-eyed-peas-among-nominees-1005069252.story “Adele, Bruno Mars, Black Eyed Peas Among Nominees for Germany's Echo Awards”] Kiểm tra giá trị |url= (trợ giúp). Billboard. Truy cập ngày 15 tháng 3 năm 2011. line feed character trong |title= tại ký tự số 41 (trợ giúp); line feed character trong |url= tại ký tự số 65 (trợ giúp)[liên kết hỏng]
  102. ^ Shockwaves NME Awards 2011 – all the winners
  103. ^ International-Dance-Music-Awards.htm 2011 International Dance Music Awards[liên kết hỏng]
  104. ^ Thompson, Ciaran. “Nominees announced for 2011 Juno Awards”. AUX. Glassbox Television Inc. Truy cập ngày 18 tháng 9 năm 2012. line feed character trong |title= tại ký tự số 33 (trợ giúp); line feed character trong |work= tại ký tự số 19 (trợ giúp)
  105. ^ “Full 2011 Billboard Music Awards Finalists List”. Billboard. Truy cập ngày 13 tháng 4 năm 2011. line feed character trong |title= tại ký tự số 5 (trợ giúp)
  106. ^ “2011 BMI Pop Music Award List”. Bmi.com. ngày 18 tháng 5 năm 2011. Truy cập ngày 15 tháng 12 năm 2012.
  107. ^ [http://features.peta2.com/libby-awards-2011/? %20Promo “Libby Award Winners 2011 " Full List”] Kiểm tra giá trị |url= (trợ giúp). PETA. Truy cập ngày 22 tháng 1 năm 2012. line feed character trong |url= tại ký tự số 46 (trợ giúp)
  108. ^ “Carole King Named BMI Icon at 60th Annual BMI Pop Awards”. BMI. Truy cập ngày 16 tháng 5 năm 2012.

Liên kết ngoài

[sửa | sửa mã nguồn]