Bước tới nội dung

Ishihara Shintarō

Bách khoa toàn thư mở Wikipedia
Ishihara Shintarō
石原慎太郎
Ishihara Shintarō năm 2003
Thống đốc Tokyo
Nhiệm kỳ
23 tháng 4 năm 1999 – 31 tháng 10 năm 2012
Tiền nhiệmAoshima Yukio
Kế nhiệmNaoki Inose
Thành viên của Tham Nghị viện
Nhiệm kỳ
1968–1972
Thành viên của Chúng Nghị viện
Nhiệm kỳ
1972–1995
Khu vực bầu cửTokyo 2nd district
Thông tin cá nhân
Sinh30 tháng 9 năm 1932
Kobe, Nhật Bản
Mất1 tháng 2 năm 2022
(89 tuổi)
Ōta, Tokyo, Nhật Bản
Đảng chính trịĐảng Tái thiết Nhật Bản
Nghề nghiệpChính trị gia

Ishihara Shintarō (石原 慎太郎 (Thạch Nguyên Thận Thái Lang)? sinh ngày 30 tháng 9 năm 1932 - mất ngày 1 tháng 2 năm 2022) là một chính trị gia phái hữu cực đoan của Nhật Bản. Ông là thị trưởng của thành phố Tokyo suốt 4 nhiệm kỳ liên tục kể từ năm 1999 đến 31/10/2012. Trước đó, ông từng giữ các chức vụ: Cục trưởng Cục Môi trường (thời Thủ tướng Fukuda Takeo), Bộ trưởng Bộ Giao thông vận tải (thời Thủ tướng Takeshita Noboru). Ông trúng cử đại biểu Hạ viện 8 kỳ liên tục từ năm 1972 đến năm 1995, đại biểu Thượng viện từ năm 1968 đến năm 1972. Trong cuộc Tổng tuyển cử năm 2012, Ishihara một lần nữa trúng cử đại biểu Hạ viện.[1]

Ishihara Shintarō còn là diễn viên,[2] nhà văn.

Thiếu thời và sự nghiệp văn chương

[sửa | sửa mã nguồn]

Ishihara Shintarō sinh ra ở Suma-ku, Kobe. Cha ông, Ishihara Kiyoshi là một nhân viên, sau đó trở thành Tổng giám đốc của một công ty vận tải hàng hải. Shintarō lớn lên tại Zushi thuộc Kanagawa. Năm 1952, ông nhập học tại Đại học Hitotsubashi và tốt nghiệp năm 1956.

Hai tháng sau khi tốt nghiệp, Shintarō nhận Giải thưởng Akutagawa Prize - một giải thưởng cao quý nhất về văn học Nhật Bản - với tác phẩm Taiyō no kisetsu[3] (太陽の季節?).[4] Người em trai của ông là Ishihara Yujiro đóng một vai phụ trong bộ phim chuyển thể từ tiểu thuyết này và cả hai nhanh chóng trở thành một thần tượng của giới trẻ.[5]

Trong đầu thập niên 1960, Ishihara Shintarō chủ yếu tập trung vào công việc viết lách, sáng tác các tiểu thuyết, kịch,... và một phiên bản phổ nhạc của Treasure Island. Một tiểu thuyết của ông viết năm 1982 tên là Đất nước bị mất mát nói lên một tương lai giả tưởng về việc Nhật Bản nằm dưới tầm ảnh hưởng của Liên Xô.[6] Ông cũng điều hành một công ty về ngành rạp hát, sân khấu, và từng đi du lịch đến Bắc Cực bằng chiếc du thuyền riêng mang tên The Contessa và đi xuyên Nam Mỹ bằng xe gắn máy. Ông đã viết hồi ký về những chuyến đi này và quyển hồi ký trở thành một tác phẩm bán chạy.[7]

Từ năm 1966 trở về sau, ông đảm trách về mảng Chiến tranh Việt Nam theo yêu cầu của Yomiuri Shimbun. Trải nghiệm này đã góp phần thúc đẩy ông tham gia vào chính trị sau đó.[8]

Sự nghiệp chính trị

[sửa | sửa mã nguồn]

Năm 1968, Ishihara tham gia tranh cử với tư cách là ứng cử viên của Đảng Dân chủ Tự do Nhật Bản (LDP) trong cuộc bầu cử Tham Nghị viện. Ông là ứng cử viên Dân chủ Tự do được nhiều phiếu ủng hộ nhất vào lúc đó (3 triệu phiếu).[9] Sau 4 năm làm đại biểu Tham Nghị viện, Ishihara tiếp tục tranh cử đại biểu củaChúng Nghị viện, đại diện cho Quận 2 Tōkyō và lại trúng cử.

Trong thời kỳ làm Nghị viên, Ishihara thường xuyên chỉ trích Đảng Dân chủ Tự do.[cần dẫn nguồn] Năm 1973 ông cùng với 30 nhà lập pháp của Đảng Dân chủ Tự do thành lập một nhóm chống Cộng mang tên "Thanh Lam Hải" (清嵐海, Seirankai, có nghĩa là "cơn bão biển trong sáng"); một tổ chức đã gây tai tiếng trong truyền thông Nhật Bản vì sealing a pledge of unity in their own blood.[5] Lý do Ishihara tham gia tổ chức này là vì ông ta cho rằng nước Nhật sau Chiến tranh thế giới thứ hai đã từ bỏ những giá trị truyền thống và khẳng định chỉ có một "cơn bão" mới có thể quét sạch bầu không khí "hôi thối" hiện tại với việc kinh tế và sự giàu có của cá nhân là giá trị được đề cao.[10]

Ishihara tham gia tranh cử Thị trưởng Tōkyō năm 1975 nhưng thất bại truốc đối thủ là Minobe Ryokichi của Đảng Xã hội Chủ nghĩa. Sau đó ông tiếp tục quay lại hoạt động chính trị trên Chúng Nghị viện và dần dần thăng quan tiến chức trong nội bộ Đảng cầm quyền: làm Tổng giám đốc của Cục Môi trường dưới thời Fukuda Takeo (1976) và Bộ trưởng Giao thông Vận tải dưới thời Takeshita Noboru (1989). Trong thập niên 1980, là một chính trị gia nổi bật của Đảng Dân chủ Tự do tuy nhiên ông chưa nhận đủ sự ủng hộ để có thể thành lập một phe phái riêng do mình lãnh đạo và leo lên cao hơn trong nấc thang chính trị quốc gia.[11]

Năm 1989, sau khi thất bại trong cuộc tranh cử chức Chủ tịch Đảng Dân chủ Tự do, Ishihara chuyển sự chú ý của mình đến phương Tây thông qua việc cùng viết tác phẩm "No" to ieru Nippon (「NO」と言える日本?) với chủ tịch tương lai của SonyAkio Morita. Tác phẩm có nội dung kêu gọi người dân Nhật Bản đứng lên chống lại Hoa Kỳ.

Ishihara giã từ cuộc sống chính trị vào năm 1995, chấm dứt 25 năm làm Nghị viên. Vào năm 1999, ông tham gia tranh cử với tư cách là ứng cử viên độc lập và trúng cử chức Thị trưởng Thành phố Tōkyō.

Quan điểm chính trị

[sửa | sửa mã nguồn]

Ishihara thường được miêu tả là một trong những nhà chính trị "cực hữu" tiêu biểu nhất của nước Nhật.[12] Đài phát thanh ABC của nước Úc gọi ông là "Le Pen của Nhật Bản".[13]

Chính sách trong thời kỳ làm Thị trưởng

[sửa | sửa mã nguồn]
  • Cắt giảm chi tiêu cho các dự án hệ thống giao thông công cộng, kể cả kế hoạch xây dựng tuyến Tàu điện ngầm Đô Doanh mới. Đồng thời đề xuất kế hoạch tư nhân hóa hoặc cho tư nhân thuê nhiều cơ sở vật chất của hệ thống này.[6]
  • Đưa ra sắc thuế mới đánh trên tổng lợi nhuận của ngân hàng (chứ không phải là lợi nhuận thực).[14]
  • Đưa ra sắc thuế mới đối với các khách sạn, đánh trên mức độ thuê phòng.[15]
  • Đưa ra các quy định hạn chế các phương tiện cơ giới dùng nhiên liệu dầu diesel lưu thông sau sự kiện Ishihara cầm một chai đầy bồ hóng do động cơ diesel thải ra khi phát biểu trước công chúng.[16]
  • Đề xuất cho mở cửa các sòng bạc tại quận Odaiba.[6]
  • Tuyên bố rằng năm 2005 Tōkyō sẽ tranh cử vị trí đăng cai Thế vận hội Mùa hè 2016, nỗ lực này phần nào bị trở ngại trước việc Fukuoka cũng đăng ký tham gia tranh cử.[17]
  • Dùng ngân sách thu từ thuế để thành lập Ngân hàng ShinGinko Tokyo nhằm cấp tín dụng cho các doanh nghiệp nhỏ và vừa. Ngân hàng này đã thiệt hại khoảng 1 tỉ Mỹ kim do đánh giá nguy cơ khách hàng không đầy đủ.[18]

Đối ngoại

[sửa | sửa mã nguồn]

Ishihara là một bằng hữu thân thiết của gia đình Aquino tại Philippines. Ông là người đầu tiên thông báo với Tổng thổng Philippines tương lai là Corazon Cojuangco Aquino về việc chồng bà, Thượng nghị sĩ Benigno S. Aquino, Jr. bị ám sát vào ngày 21 tháng 8 năm 1983.

Ishihara thường chỉ trích các chính sách đối ngoại của Nhật Bản là thiếu quả quyết. Khi nói về mối quan hệ Nhật-Mỹ, ông nói rằng "Quốc gia mà tôi không thích nhất xét trên quan hệ Nhật-Mỹ là Nhật Bản, tại vì nó là một quốc gia không thể tự quyết định được."[11] Đối với chính sách thiên về hướng ôn hòa của Hatoyama Yukio đối với CHND Trung Hoa, mặc dù Ishihara đồng tình rằng các quốc gia đều muốn hòa bình, nhưng ông nhận định Hatoyama là một "người đa cảm" và là "tên ngốc" không biểu biết gì về chính sách dùi cui, đồng thời việc Hatoyama trúng cử là "dấu hiệu của sự yếu kém ở Nhật Bản". Bản thân Ishihara cho rằng đã đến lúc Nhật Bản áp dụng chính sách dùi cui thay cho chính sách hòa hoãn mà Hatoyama đang áp dụng.[10]

Ishihara cũng có thái độ chỉ trích đối với chính phủ của CHND Trung Hoa. Ông đã mời Đạt Lai Lạt MaTổng thống Trung Hoa Dân quốc Lý Đăng Huy đến Tokyo, điều này đã chọc giận phía CHND Trung Hoa.[6] Sau chiến dịch vận động để Tokyo trở thành nơi đăng cai Thế vận hội Mùa hè 2016, Ishihara đã có phần giảm bớt sự chỉ trích của mình đối với CHND Trung Hoa. Ông đã chấp nhận lời mời tham dự Thế vận hội Mùa hè 2008Bắc Kinh và được chọn làm người cầm đuốc của Nhật Bản tại Cuộc rước đuốc của Thế vận hội 2008.[19]

Ishihara cũng thể hiện rõ lập trường chống phương Tây và Hoa Kỳ của mình. Trong thập niên 1990 ông nổi tiếng là một người bảo vệ các giá trị truyền thống châu Á và chống lại các giá trị tự do dân chủ theo kiểu phương Tây. Đặc biệt, mặc dù luôn có quan điểm chống lại chính thể CHND Trung Hoa, Ishihara đã ủng hộ các luận điểm của CHND Trung Hoa khi họ phản đối việc Thủ tưởng Anh chỉ trích vấn đề nhân quyền của CHND Trung Hoa. Lúc đó phía CHND Trung Hoa đã chỉ ra rằng trong quá khứ thực dân Anh đã cắm những tấm biển mang tính chất kỳ thị như "cấm chó và người Trung Quốc vào" ở Thượng Hải. Năm 1992 Ishihara cùng với Thủ tướng Malsysia Mahathir Mohamad viết tác phẩm 'No' To Ieru Ajia thể hiện rõ ràng lập trường của mình trong chính sách đối với Hoa Kỳ.[10]

Ishihara có nhiều quan tâm tới vấn đề bắt cóc người dân ở CHDCND Triều Tiên và đã kêu gọi trừng phạt về kinh tế đối với quốc gia này.[20]

Trong một buổi phỏng vấn thực hiện bởi David McNeil đăng trên báo The Independent, Ishihara đã kêu gọi vũ trang Nhật Bản bằng vũ khí hạt nhân, điều mà ông cho rằng có thể thực hiện trong vòng một năm. Ishihara cho rằng các quốc gia "kẻ thù" (và cũng là láng giềng) của Nhật Bản như CHND Trung Hoa, Nga, CHDCND Triều Tiên đều có vũ khí hạt nhân, và các thành viên của Hội đồng Bảo an Liên Hợp Quốc cũng có vũ khí hạt nhân. Sự "kiêu ngạo" của CHND Trung Hoa phần nào cũng do sự thiếu hụt vũ khí hạt nhân của Nhật Bản. Ông cũng cho rằng các cuộc đấu tranh ngoại giao "có nghĩa là vũ khí hạt nhân".[10]

Ngày 15 tháng 4 năm 2012, tại Washington DC, Hoa Kỳ, Ishihara tuyên bố mong muốn chính quyền Tokyo bỏ tiền ra mua lại đất đai của quần đảo Senkaku/Điếu Ngư (hiện đang thuộc sở hữu của tư nhân) đang tranh chấp với CHDN Trung Hoa nhằm khẳng định chủ quyền của Nhật Bản đối với vùng lãnh thổ này. Phát biểu này đã gây phẫn nộ trong dư luận Trung Hoa và gây căng thẳng giữa chính phủ hai nước Trung-Nhật.[21][22]

Những phát biểu gây tranh cãi

[sửa | sửa mã nguồn]

Ishihara cũng nổi tiếng với những phát biểu nhạy cảm gây nhiều tranh cãi và cả nhiều chỉ trích từ trong và ngoài Nhật Bản.

Các phát biểu mang tính bài ngoại

[sửa | sửa mã nguồn]

Năm 1984, Ishihara thành lập Hội Ái hữu giữa các nghị viên Nhật Bản với các đại biểu quốc hội của chính quyền ApartheidNam Phi lúc đó. Với tư cách là người sáng lập, Ishihara đã công khai ủng hộ chủ nghĩa Apartheid ở Nam Phi.[cần dẫn nguồn]

Vào tháng 11 năm 1999, Ishihara nói với Takeshi Noda - sĩ quan của cơ quan cảnh sát của thủ đô Tokyo rằng, trong trường hợp một thảm họa tự nhiên xảy ra, "có khả năng những người nước ngoài cư trú bất hợp pháp sẽ thực hiện những hành động vượt ra ngoài tầm kiểm soát."[cần dẫn nguồn]

Ngày 9 tháng 4 năm 2000, trong một bài phát biểu trước các binh sĩ thuộc Cục Phòng vệ Nhật Bản, Ishihara tuyên bố rằng những người nước ngoài và bọn tam quốc nhân (三国人, một từ ngữ thường được dùng với ý nghĩa miệt thị ở Nhật) đã liên tiếp gây ra nhiều tội ác tàn bạo ở Nhật Bản, và cho rằng trong trường hợp thiên tai xảy ra ở Nhật Bản thì những nhóm người này nhiều khả năng sẽ gây ra bạo loạn.[23] Phát biểu này đã gây ra nhiều sợ hãi cùng với áp lực đòi từ chức và yêu cầu xin lỗi từ phía người Triều Tiên ở Nhật Bản.[6] Sau đó Ishihara đã giải thích rằng:

Phần nhiều những lời chỉ trích về phát biểu của Ishihara xoay quanh từ tam quốc nhân, nó là từ ám chỉ những người Hánngười Triều Tiên sống và làm việc tại Nhật Bản; nhiều người trong số đó đã bị những đám đông cuồng nộ người Nhật giết hại sau Đại thảm họa động đất Kantō 1923.[6]

Vào ngày 20 tháng 2 năm 2006, Ishihara nói rằng: "Bây giờ Roppongi gần như là một khu vực của người nước ngoài. Người gốc Phi — tôi không ám chỉ người Mỹ gốc Phi — những kẻ không biết tiếng Anh tại đó đang làm những trò mà chả ai biết được. Điều này sẽ dẫn đến những loại hình phạm tội mới như ăn trộm xe hơi. Chúng ta nên để cho những người thông minh vào cư trú."[24]

Ngày 17 tháng 4 năm 2010, Ishihara tuyên bố "nhiều nhà làm luật thâm niên thuộc các đảng của liên minh cầm quyền hiện nay là những người nước ngoài du nhập vào Nhật Bản hoặc là con cháu của những người đó".[25] Vì vậy lãnh đạo của Đảng Dân chủ Xã hội Nhật BảnFukushima Mizuho đã từng tính kiện ông ta ra tòa.[26][27]

Trong lễ khai trương một trường đại học năm 2004, Ishihara tuyên bố rằng tiếng Pháp không xứng đáng trở thành một ngôn ngữ thế giới vì nó là "một thứ tiếng không ai tin tưởng được", ám chỉ đến hệ thống số đếm của Pháp dựa trên hệ nhị thập phân đối với các số từ 1 đến 99 chứ không dùng hệ thập phân. Tuyên bố này đã khiến nhiều trường dạy ngoại ngữ đâm đơn kiện ông vào năm 2005. Ishihara sau đó tuyên bố trên một bản tin truyền hình rằng ông không định có thái độ thiếu tôn trọng đối với văn hóa Pháp bằng cách bày tỏ niềm yêu thích của mình đối với văn học Pháp.[10][28]

Phát biểu gây tranh cãi về lịch sử

[sửa | sửa mã nguồn]

Năm 1990, Ishihara phát biểu trong một cuộc phỏng vấn trên tạp chí Playboy rằng Thảm sát Nam Kinh là một câu chuyện hoang đường: "Nhiều người đã nói rằng người Nhật đã thực hiện một cuộc thảm sát nhưng điều đó là không đúng sự thật. Đó là một câu chuyện được bịa đặt bởi người Trung Quốc. Nó đã làm vấy bẩn hình ảnh của Nhật Bản, nhưng đó là điều dối trá."[29] Ông vẫn tiếp tục biện bạch cho nhận xét này của mình bất chấp làn sóng phản đối mạnh mẽ đã bùng lên sau đó.[30] Ishihara cũng ủng hộ bộ phim Nankin no shinjitsu có nội dung cho rằng Thảm sát Nam Kinh chỉ là một sự tuyên truyền.

Ishihara cũng tuyên bố rằng việc Đế quốc Nhật Bản xâm lược Triều Tiên hoàn toàn được bào chữa nhờ vào những áp lực lịch sử từ nhà ThanhĐế quốc Nga.[31]

Phát biểu về trận động đất Sendai 2011

[sửa | sửa mã nguồn]

Khi nói về Động đất Tōhoku vào năm 2011, ông nói thảm họa này là do Trời phạt dân Nhật bởi vì họ quá tham lam:[32][33][34]

Tuy nhiên, ông cũng nhận xét rằng các nạn nhân của thảm họa này thật là đáng thương.[38]

Bài phát biểu này đã nhanh chóng gây ra nhiều tranh cãi và nhiều ý kiến phẫn nộ từ dư luận trong lẫn ngoài nước Nhật. Bản thân thị trưởng của Miyagi đã bày tỏ sự không hài lòng về phát biểu của Ishihara, ông cho rằng Ishihara phải suy nghĩ đến những nạn nhân của thảm họa sóng thần. Sau đó, Ishihara đã phải xin lỗi về lời phát biểu này.[39]

Các phát biểu gây tranh cãi khác

[sửa | sửa mã nguồn]

Trong một cuộc phỏng vấn trên tạp chí dành cho phụ nữ Shukan Josei vào năm 2001, Ishihara tuyên bố ông tin rằng "những phụ nữ lớn tuổi sau khi không còn khả năng sinh sản là đồ vô dụng và mắc một tội lỗi," giải thích thêm là "không thể nào nói như thế với tư cách một chính trị gia." Ông đã bị Hội đồng Thành phố Tōkyō chỉ trích về phát biểu này, nhưng trả lời rằng các chỉ trích đó xuất phát từ sự xúi giục của các "bà già bạo ngược".[10][40]

Trong một cuộc họp báo của Ủy ban Olympic Quốc tế diễn ra ở Tokyo năm 2009, Ishihara bác bỏ một lá thư khiếu nại của nhà hoạt động môi trường Paul Coleman với nội dung chỉ trích sự trái ngược giữa chính sách chặt phá rừng ở vùng núi Minamiyama - khu vực gần vùng núi nằm gần nhất so với trung tâm Tokyo - với khẩu hiệu tranh cử đăng cai thế vận hội 2016 của Tokyo là "Xanh hơn bao giờ hết" (THE GREENEST EVER). Ishihara đã nói rằng Coleman "Chỉ là một người nước ngoài, không đáng quan tâm." Sau đó khi nhà báo Yokata Hajime tiếp tục cật vấn về vấn đề này, Ishihara nói rằng "Minamiyama là một Núi Quỷ ăn thịt trẻ em", giải thích tại sao một khu rừng không được quản lý có thể "ăn thịt trẻ em", và sau đó hỏi ngược lại Yokota là "anh thuộc dân tộc nào vậy" ám chỉ Yokata là kẻ phản bội lại dân tộc mình. Đoạn phát biểu này được ghi lại và phát tán trên thế giới [41].

Vào năm 2000, Ishihara, với tư cách là một trong 8 giám khảo của giải thưởng văn học Akutagawa, nhận xét rằng đồng tính luyến ái là một chuyện bất bình thường. Nhận xét này đã gây phẫn nộ trong cộng đồng người đồng tính Nhật Bản.[42]

Trong Thế vận hội 2012, Ishihara phát biểu: "Người phương Tây tập judo giống như là mấy con quái vật đang đánh nhau. Bộ phận Judo quốc tế hóa đã mất đi sự lôi cuốn." Ông minh họa thêm rằng: "Ở Brasil người ta thêm sôcôla vào món norimaki, nhưng tôi sẽ không xem nó là một loại sushi. Judo cũng trở nên giống như vậy đó."[43]

Các tác phẩm của Ishihara

[sửa | sửa mã nguồn]
Ishihara Shintarō (cao) và Yukio Mishima (thấp) vào năm 1956.
  • Taiyō no kisetsu (太陽の季節), Season of the Sun, 1956: Akutagawa Prize, The Best New Author of the Year Prize.
  • Kurutta kajitsu (狂った果実), Crazed Fruit, 1956.
  • Kanzen Na Yuugi (完全試合), The Perfect Game, 1956.
  • Umi no chizu (海の地図), Map of the sea, 1958.
  • Seinen no ki (青年の樹), Tree of the youth.
  • Gesshoku (月蝕), Lunar eclipse, 1959.
  • Seishun to wa nanda (青春とはなんだ), What is youth? .
  • Ōinaru umi e (大いなる海へ), To the great sea, 1965.
  • Kaeranu umi (還らぬ海), Unretreating Sea 1966.
  • Kaseki no mori(化石の森), Petrified forest, 1970: Minister of Education Prize
  • Yabanjin no daigaku (野蛮人の大学), University of barbarian .
  • 'Nō' to ieru Nihon (「NO」と言える日本) The Japan That Can Say No (in collaboration with Akio Morita), 1989.
  • Soredemo 'Nō' to ieru Nihon. Nichibeikan no kompommondai (それでも「NO」と言える日本 ―日米間の根本問題―) The Japan That Can Say No. Principle problem of the Japon-US relations, (in collaboration with Shouichi WatanabeKazuhisa Ogawa), 1990.
  • 'Chichi' nakushite kuni tatazu ("父"なくして国立たず), No country without "father", 1997.
  • Hisai (秘祭), Secret festival .
  • Seikan (生還), Survive, 1988.
  • Waga jinsei no toki no toki (わが人生の時の時), The sublime moment of my life, 1990.
  • Kaze ni tsuite no kioku (風についての記憶), My memory about the wind, 1994.
  • Otōto (弟), Yonger brother, 1996: Mainichibungakusho Special Prize.
  • Sensen fukoku 'Nō' to ieru Nihon keizai -Amerika no kin'yū dorei kara no kaihō- (宣戦布告「NO」と言える日本経済 ―アメリカの金融奴隷からの解放―), Proclamation of war, 1998.
  • Hokekyō o ikiru (法華経を生きる), To live the Lotus Sutra, 1998.
  • Seisan (聖餐), 1999.
  • Kokka naru gen'ei (国家なる幻影), The nation, an illusion , 1999.
  • Boku wa kekkon shinai (僕は結婚しない) I will not marry, 2001.
  • Ima 'Tamashii' no kyōiku (いま「魂」の教育), Now, 'spirit' education, 2001.
  • Oite koso jinsei (老いてこそ人生) , 2002.

Bản dịch tiếng Anh

Sự nghiệp điện ảnh

[sửa | sửa mã nguồn]

Ishihara Shintarō đã tham gia diễn xuất trong 6 bộ phim[44]

Qua đời

[sửa | sửa mã nguồn]

Ông qua đời vì bệnh Ung thư tuyến tụyTokyo, Nhật Bản vào ngày 1/2/2022, hưởng thọ 89 tuổi. 1 Tháng sau vợ của ông cũng đã qua đời ngày 8 tháng 3 năm 2022 hưởng thọ 84 tuổi.

Gia đình

[sửa | sửa mã nguồn]

Ishihara Shintarō có em trai tên là Ishihara Yujirō là một diễn viên điện ảnh. Ông cưới Ishihara Noriko năm 1955. Hai người sinh được bốn con trai. Con trai cả - Ishihara Nobuteru - và con trai thứ ba - Ishihara Hirotaka - đều trở thành những chính trị gia nổi bật. Con trai thứ hai - Yoshizumi - là nghệ sĩ. Con trai út - Nobuhiro - là một họa sĩ.

Chú thích

[sửa | sửa mã nguồn]
  1. ^ Japan Times Ex-Tokyo Gov. Ishihara set to secure lower house seat ngày 16 tháng 12 năm 2012
  2. ^ “Shintaro Ishihara” (bằng tiếng Anh). IMDb. Truy cập ngày 23 tháng 3 năm 2011.
  3. ^ "Season of the Sun"? "Seasons in the Sun"? See”. Bản gốc lưu trữ ngày 7 tháng 2 năm 2012. Truy cập ngày 25 tháng 3 năm 2011.
  4. ^ “Profile of the Governor, Tokyo Metropolitan Government”. Bản gốc lưu trữ ngày 30 tháng 9 năm 2012. Truy cập ngày 25 tháng 3 năm 2011.
  5. ^ a b "Mayors: Shintaro Ishihara: Governor of Tokyo," CityMayors.com.
  6. ^ a b c d e f Tim Larimer, "Rabble Rouser Lưu trữ 2013-04-08 tại Wayback Machine," TIME Asia, ngày 24 tháng 4 năm 2000
  7. ^ Zipangu NGO website
  8. ^ (tiếng Nhật) http://www.sensenfukoku.net/nation/nation.html Lưu trữ 2011-05-15 tại Wayback Machine Sensen Fukoku, accessed 22 Dec 2010.
  9. ^ John J. Emmerson, Arms, Yen & Power: The Japanese Dilemma, (Tokyo: C.E. Tuttle, 1971), 339.
  10. ^ a b c d e f “Ishihara: Crank Call or Wake Up Call” (bằng tiếng Anh). ngày 9 tháng 3 năm 2011.
  11. ^ a b c "'There's No Need For an Apology': Tokyo's boisterous governor is back in the headlines Lưu trữ 2013-04-08 tại Wayback Machine," TIME Asia, ngày 24 tháng 4 năm 2000.
  12. ^ http://www.thefreelibrary.com/-a095319883 New Independent
  13. ^ The World Today Archive - Japan's Le Pen
  14. ^ Andrew DeWit and Masaru Kaneko, "Ishihara and the Politics of His Bank Tax Lưu trữ 2016-08-26 tại Wayback Machine," JPRI Critique 9:4, May 2002.
  15. ^ "Tokyo hotel tax plan enacted," Kyodo News International, ngày 24 tháng 12 năm 2001.
  16. ^ "Diesels may return to Japan roads," Reuters, ngày 3 tháng 3 năm 2006.
  17. ^ "Tokyo governor suggests bid for 2016 Olympics," Daily Times, ngày 6 tháng 8 năm 2005.
  18. ^ "ShinGinko Tokyo: the crumbling icon of imbecility," Times Online, ngày 13 tháng 8 năm 2007.
  19. ^ [1]
  20. ^ "Ishihara: Only Sanctions Will Force North Korea to Disarm; Japan Needs Its Own Missile Shield (Global Viewpoint 10-22-2003)", New Perspectives Quarterly, ngày 23 tháng 10 năm 2003.
  21. ^ Reuters, ngày 17 tháng 4 năm 2012, Tokyo governor seeks to buy islands disputed with China
  22. ^ GlobalPost, ngày 17 tháng 4 năm 2012, Tokyo Governor Shintaro Ishihara riles Beijing with plan to buy islands in a disputed area of the East China Sea
  23. ^ Tiếng Nhật: "今日の東京をみますと、不法入国した多くの三国人、外国人が非常に凶悪な犯罪を繰り返している。もはや東京の犯罪の形は過去と違ってきた。こういう状況で、すごく大きな災害が起きた時には大きな大きな騒じょう事件すらですね想定される、そういう現状であります。こういうことに対処するためには我々警察の力をもっても限りがある。だからこそ、そういう時に皆さん(=自衛隊)に出動願って、災害の救急だけではなしに、やはり治安の維持も1つ皆さんの大きな目的として遂行して頂きたいということを期待しております。"
  24. ^ "Japan Threatened by China, Its Own Timidity: Ishihara", Bloomberg, ngày 20 tháng 2 năm 2007.
  25. ^ 与党の党首や幹部は帰化した人の子孫が多い
  26. ^ “Tokyo governor calls ruling party veterans 'naturalized'+”. Bản gốc lưu trữ ngày 12 tháng 6 năm 2011. Truy cập ngày 21 tháng 3 năm 2011.
  27. ^ Natural Born Vote? The Diplomat
  28. ^ Robert Reed, "The governor's artistic side[liên kết hỏng]," Daily Yomiuri, ngày 28 tháng 7 năm 2005.
  29. ^ Playboy, Vol. 37, No. 10, p 63
  30. ^ Iris Chang, The Rape of Nanking, p. 201-202
  31. ^ “『与党は帰化した子孫多い』 石原知事”. Tokyo Shimbun (bằng tiếng Nhật). ngày 18 tháng 4 năm 2010. Truy cập ngày 21 tháng 4 năm 2010.
  32. ^ “Tide of bodies overwhelms quake-hit Japan”. Lưu trữ bản gốc ngày 16 tháng 3 năm 2011. Truy cập ngày 21 tháng 3 năm 2011.
  33. ^ [http://www.asahi.com/special/tokyo/TKY201103140356.html “asahi.com��ī����ʹ�ҡˡ�����̺Ҥ�ŷȳ�ס����ȤDz���������Ȥ����и����λ�”]. Truy cập 14 tháng 2 năm 2015. replacement character trong |tiêu đề= tại ký tự số 10 (trợ giúp)
  34. ^ “Tokyo Governor Ishihara says earthquake and tsunami was”. World News. Truy cập 14 tháng 2 năm 2015.
  35. ^ Nguyên văn tiếng Nhật đăng tại 朝日新聞2011年3月14日: "アメリカのアイデンティティーは自由。フランスは自由と博愛と平等。日本はそんなものはない。我欲だよ。物欲、金銭欲"
  36. ^ Nguyên văn: "我欲に縛られて政治もポピュリズムでやっている。それを(津波で)一気に押し流す必要がある。積年たまった日本人の心のあかを" (朝日新聞2011年3月14日)
  37. ^ Nguyên văn: "日本人のアイデンティティーは我欲。この津波をうまく利用して我欲を1回洗い落とす必要がある。やっぱり天罰だと思う" (朝日新聞2011年3月14日)
  38. ^ 朝日新聞2011年3月14日
  39. ^ http://www.japantoday.com/category/politics/view/ishihara-apologizes-over-divine-punishment-remark#show_all_comments[liên kết hỏng]
  40. ^ Japan Civil Liberties Union, "Committee on Elimination of Discrimination Against Women, The Third Consideration of Japanese Governmental Report: Proposal of List of Issues for Pre-sessional Working Group Lưu trữ 2012-11-23 tại Wayback Machine."
  41. ^ May 29th 2009: Tokyo Governor's press conference
  42. ^ “Ishihara's homophobic remarks raise ire of gays”. Lưu trữ bản gốc ngày 18 tháng 7 năm 2012. Truy cập ngày 23 tháng 3 năm 2011.
  43. ^ 石原都知事「西洋人の柔道はけだもののけんか (bằng tiếng Nhật), The Daily Yomiuri, Bản gốc lưu trữ ngày 12 tháng 8 năm 2012, truy cập ngày 24 tháng 2 năm 2013
  44. ^ [http://www.jmdb.ne.jp/person/p0225970.htm “�Ό��T���Y”]. replacement character trong |tiêu đề= tại ký tự số 1 (trợ giúp)

Liên kết ngoài

[sửa | sửa mã nguồn]

Bản mẫu:Governors of Tokyo