Bước tới nội dung

I-33 (tàu ngầm Nhật)

Bách khoa toàn thư mở Wikipedia
Xác tàu đắm của I-33 đang được trục vớt, ngày 30 tháng 8 năm 1953
Lịch sử
Đế quốc Nhật Bản
Tên gọi Tàu ngầm số 146
Xưởng đóng tàu Mitsubishi, Kobe
Đặt lườn 21 tháng 2, 1940
Đổi tên I-41, 25 tháng 3, 1941
Hạ thủy 1 tháng 5, 1941
Đổi tên I-33, 1 tháng 11, 1941
Hoàn thành 10 tháng 6, 1942
Nhập biên chế 10 tháng 6, 1942
Xóa đăng bạ 10 tháng 8, 1944
Số phận
Đặc điểm khái quát
Lớp tàu Type B1
Trọng tải choán nước
  • 2.625 tấn (2.584 tấn Anh) (nổi) [1]
  • 3.713 tấn (3.654 tấn Anh) (ngầm) [1]
Chiều dài 108,7 m (356 ft 8 in) chung [1]
Sườn ngang 9,3 m (30 ft 6 in)[1]
Mớn nước 5,14 m (16 ft 10 in)[1]
Công suất lắp đặt
  • 12.400 bhp (9.200 kW) (diesel)[1]
  • 2.000 hp (1.500 kW) (điện)[1]
Động cơ đẩy
Tốc độ
Tầm xa
  • 14.000 nmi (26.000 km; 16.000 mi) ở tốc độ 16 hải lý trên giờ (30 km/h; 18 mph) (nổi)[1]
  • 96 nmi (178 km; 110 mi) ở tốc độ 3 hải lý trên giờ (5,6 km/h; 3,5 mph)
Độ sâu thử nghiệm 100 m (330 ft)
Thủy thủ đoàn 94
Vũ khí
Máy bay mang theo 1 × thủy phi cơ Yokosuka E14Y
Hệ thống phóng máy bay 1 × máy phóng máy bay

I-33 là một tàu ngầm tuần dương lớp Type-B (巡潜乙型潜水艦 Junsen Otsu-gata sensuikan?) được Hải quân Đế quốc Nhật Bản chế tạo trong giai đoạn ngay trước Chiến tranh Thế giới thứ hai. Nhập biên chế năm 1942, nó đã thực hiện một chuyến tuần tra trong khuôn khổ Chiến dịch Guadalcanal và tham gia trận chiến Đông Solomon trước khi bị đắm do tai nạn tại Truk vào tháng 9, 1942. Được trục vớt và đưa về Nhật Bản để sửa chữa, I-33 lại bị đắm do tai nạn khi chạy thử máy trong biển nội địa Seto vào tháng 6, 1944. Xác tàu đắm chỉ được trục vớt sau chiến tranh.

Thiết kế và chế tạo[sửa | sửa mã nguồn]

Thiết kế[sửa | sửa mã nguồn]

Tàu ngầm Type B được cải tiến từ phân lớp KD6 của lớp tàu ngầm Kaidai dẫn trước, và được trang bị một thủy phi cơ nhằm tăng cường khả năng trinh sát.[3] Chúng có trọng lượng choán nước 2.631 tấn (2.589 tấn Anh) khi nổi và 3.713 tấn (3.654 tấn Anh) khi lặn,[1] lườn tàu có chiều dài 108,7 m (356 ft 8 in), mạn tàu rộng 9,3 m (30 ft 6 in) và mớn nước sâu 5,1 m (16 ft 9 in).[1] Con tàu có thể lặn sâu đến 100 m (328 ft),[3] và có một thủy thủ đoàn đầy đủ bao gồm 94 sĩ quan và thủy thủ.[1]

Type B1 trang bị hai động cơ diesel Kampon Mk.2 Model 10 công suất 6.200 mã lực phanh (4.623 kW),[1] mỗi chiếc vận hành một trục chân vịt. Khi lặn, mỗi trục được vận hành bởi một động cơ điện công suất 1.000 mã lực (746 kW).[1] Khi di chuyển trên mặt nước nó đạt tốc độ tối đa 23,6 hải lý trên giờ (43,7 km/h; 27,2 mph) và 8 hải lý trên giờ (15 km/h; 9,2 mph) khi lặn dưới nước,[4] tầm xa hoạt động của Type B1 là 14.000 hải lý (26.000 km; 16.000 mi) ở tốc độ 16 hải lý trên giờ (30 km/h; 18 mph),[1] và có thể lặn xa 96 nmi (178 km; 110 mi) ở tốc độ 3 hải lý trên giờ (5,6 km/h; 3,5 mph).[5]

Những chiếc Type B1 có sáu ống phóng ngư lôi 53,3 cm (21,0 in), tất cả được bố trí trước mũi, và mang theo tổng cộng 17 quả ngư lôi Kiểu 95.[1] Vũ khí trên boong tàu bao gồm khẩu hải pháo 14 cm (5,5 in),[1][2] và hai pháo phòng không 25 mm Type 96.[5] Hầm chứa máy bay được tích hợp vào tháp chỉ huy và hướng ra phía trước. Máy phóng máy bay được bố trí hướng ra phía trước, trong khi khẩu hải pháo trên boong đặt phía sau. Cách sắp xếp này giúp chiếc thủy phi cơ Yokosuka E14Y tận dụng tốc độ hướng ra trước của con tàu khi được phóng lên.[5]

Chế tạo[sửa | sửa mã nguồn]

I-33 được đặt lườn như là chiếc Tàu ngầm số 146 tại xưởng tàu của hãng MitsubishiKobe vào ngày 21 tháng 2, 1940.[6][7] Nó được đổi tên thành I-41 vào ngày 25 tháng 3, 1941 và hạ thủy vào ngày 1 tháng 5, 1941,[6][7] rồi đổi tên thành I-33 vào ngày 1 tháng 11, 1941.[6][7] Con tàu hoàn tất và nhập biên chế vào ngày 10 tháng 6, 1942,[6][7] dưới quyền chỉ huy của Trung tá Hải quân Ogawa Tsunayoshi.[6]

Lịch sử hoạt động[sửa | sửa mã nguồn]

1942[sửa | sửa mã nguồn]

Ngay khi nhập biên chế, I-33 được phối thuộc cùng Quân khu Hải quân Kure.[6] Vào ngày 10 tháng 6, 1942, nó cùng các tàu ngầm chị em I-31I-32 gia nhập Đội tàu ngầm 15, thuộc Hải đội Tàu ngầm 1, trực thuộc Đệ Lục hạm đội.[6][7]

Chuyến tuần tra thứ nhất[sửa | sửa mã nguồn]

Sau khi lực lượng Đồng Minh đổ bộ lên Guadalcanal, I-33 khởi hành từ Kure vào ngày 15 tháng 8 cho chuyến tuần tra đầu tiên trong chiến tranh tại khu vực quần đảo Solomon, hình thành nên tuyến canh phòng về phía Nam San Cristóbal.[7] Khi trận chiến Đông Solomon diễn ra vào ngày 24 tháng 8, I-33 đang đi trên mặt biển khi nó bị một máy bay ném bom bổ nhào SBD-3 Dauntless Hải quân Hoa Kỳ xuất phát từ tàu sân bay USS Enterprise (CV-6) tấn công lúc 11 giờ 05 phút tại tọa độ 09°21′N 163°35′Đ / 9,35°N 163,583°Đ / -9.350; 163.583. Chiếc tàu ngầm đã lặn khẩn cấp nên tránh bị hư hại.[7]

Vào ngày 26 tháng 8, I-33 được lệnh cùng các tàu ngầm I-11, I-15, I-17, I-19, I-26, I-174I-175 bố trí về phía Đông và Nam San Cristóbal để ngăn chặn lực lượng tăng viện và tiếp liệu Hoa Kỳ đến Guadalcanal.[8] Lúc khoảng nữa đêm ngày 28 tháng 8, I-15 trông thấy một tàu chiến mà nó nhận định là một tàu sân bay ở vị trí về phía Đông San Cristóbal đang hướng xuống phía Nam,[8] nên I-15, I-17I-33 được lệnh truy đuổi mục tiêu, nhưng đã không bắt gặp đối tượng.[8] Hai ngày sau đó, I-33 phát hiện lực lượng đặc nhiệm đối phương, nhưng không thể đi đến vị trí để tấn công.[7]

Vào ngày 10 tháng 9, I-33 được lệnh cùng các tàu ngầm I-9, I-15, I-17, I-19, I-21, I-24I-26 hình thành nên tuyến tuần tra giữa đảo Ndeni thuộc quần đảo Santa Cruz và San Cristóbal.[8] Lúc 09 giờ 30 phút ngày 13 tháng 9, một thủy phi cơ Kawanishi H8K "Emily" phát hiện lực lượng đặc nhiệm Hoa Kỳ ở vị trí 345 nmi (639 km) về phía Đông Nam Tulagi, nên I-33 cùng với các tàu ngầm I-9, I-15, I-17, I-21, I-24, I-26I-31 được lệnh hình thành nên tuyến tuần tra tại khu vực này để đánh chặn.[8] Đến ngày 20 tháng 9, I-33 được lệnh rời khu vực tuần tra để quay trở về căn cứ Truk, đến nơi vào ngày 25 tháng 9.[7]

Bị đắm tại Truk[sửa | sửa mã nguồn]

Vào ngày 26 tháng 9, tại căn cứ Truk, I-33 neo đậu cặp bên mạn tàu sửa chữa Urakami Maru;[7][9] một nữa thủy thủ đoàn được nghỉ phép trên bờ, hạm trưởng của I-33 đang ở bên trên Urakami Maru, và sĩ quan hoa tiêu là chỉ huy cao cấp nhất trên tàu vàp lúc đó.[7] Từ sáng sớm, ba kỹ sư từ Urakami Maru đã có mặt trên tàu để sửa chữa ống phóng ngư lôi số 6.[9][7] Đến 09 giờ 21 phút, sĩ quan hoa tiêu cho phép mở van thùng dằn chính phía sau tàu để giúp cho việc sửa chữa dễ dàng hơn, bằng cách nâng cao phần mũi tàu và giảm nhẹ hiệu ứng do sóng đánh.[9][7] Tuy nhiên, I-33 bị mất cân bằng và dây neo phía đuôi với bến tàu bị đứt khiến nước tràn vào cửa sập phòng ngư lôi phía trước, và chiếc tàu ngầm đắm chỉ trong vòng hai phút khiến 33 thành viên thủy thủ đoàn thiệt mạng.[9][7]

Hoạt động cứu hộ lập tức được tiến hành.[9][7] Thợ lặn tìm thấy I-33 dưới đáy vũng biển ở độ sâu 120 ft (37 m) và báo cáo một số thủy thủ của nó vẫn còn sống sót.[9][7] Tuy nhiên do không có thiết bị cứu hộ phù hợp, bộ chỉ huy Đệ Lục hạm đội quyết định hủy bỏ hoạt động cứu hộ vào ngày hôm sau 27 tháng 9,[9] và mở cuộc điều tra về nguyên nhân tai nạn.[7]

Trục vớt[sửa | sửa mã nguồn]

Vào ngày 30 tháng 9, Bộ Hải quân Nhật Bản ra lệnh trục vớt I-33, và Hạm đội Liên hợp chuyển tiếp mộnh lệnh này đến Đệ Tứ hạm đội vào ngày 2 tháng 10, vì Đệ Lục hạm đội không có phương tiện phù hợp.[7] Công việc được tiến hành từ ngày 19 tháng 12, lườn I-33 được bơm khí nén và mũi tàu nổi lên được mặt nước; tuy nhiên một cửa nắp bị bung ra chỉ sau ba phút nên con tàu lại chìm xuống.[7] Tàu cứu hộ tàu ngầm Mie Marutàu chở dầu Nippo Maru tiếp tục một nỗ lực khác vào ngày 25 tháng 12, và I-33 nổi trở lại vào ngày 29 tháng 12.[7]

1943 - 1944[sửa | sửa mã nguồn]

Sửa chữa[sửa | sửa mã nguồn]

Trục vớt và tháo dỡ[sửa | sửa mã nguồn]

Sau chiến tranh, công ty trục vớt Hokusei Sempaku bắt đầu các hoạt động nhằm trục vớt I-33 vào tháng 6, 1953.[7] Công việc được tiến hành từ ngày 23 tháng 7 đến ngày 18 tháng 8, 1953. Họ khám phá rằng các khoang phía trước của tàu đã không bị ngập nước.[7] Con tàu được tháo dỡ tại xưởng tàu của hãng Hitachi tại Innoshima, Hiroshima. [7]

Tham khảo[sửa | sửa mã nguồn]

Chú thích[sửa | sửa mã nguồn]

  1. ^ a b c d e f g h i j k l m n o p q r s “Type B1”. combinedfleet.com. 2016. Truy cập ngày 6 tháng 5 năm 2024.
  2. ^ a b Campbell (1985), tr. 191.
  3. ^ a b Bagnasco (1944), tr. 189.
  4. ^ Chesneau (1980), tr. 200.
  5. ^ a b c Carpenter & Polmar (1986), tr. 102.
  6. ^ a b c d e f g “I-33 ex I-41 ex No-146”. ijnsubsite.info. 3 tháng 8 năm 2018. Truy cập ngày 14 tháng 5 năm 2024.
  7. ^ a b c d e f g h i j k l m n o p q r s t u v w Hackett, Bob; Kingsepp, Sander (2016). “IJN Submarine I-33: Tabular Record of Movement”. combinedfleet.com. Truy cập ngày 14 tháng 5 năm 2024.
  8. ^ a b c d e Hackett, Bob; Kingsepp, Sander (2016). “IJN Submarine I-15: Tabular Record of Movement”. combinedfleet.com. Truy cập ngày 14 tháng 5 năm 2024.
  9. ^ a b c d e f g Hackett, Bob; Kingsepp, Sander (2016). “IJN Repair Ship URAKAMI MARU: Tabular Record of Movement”. combinedfleet.com. Truy cập ngày 14 tháng 5 năm 2024.

Thư mục[sửa | sửa mã nguồn]

  • Bagnasco, Erminio (1977). Submarines of World War Two. Annapolis, Maryland: Naval Institute Press. ISBN 0-87021-962-6.
  • Boyd, Carl & Yoshida, Akikiko (2002). The Japanese Submarine Force and World War II. Annapolis, Maryland: Naval Institute Press. ISBN 1-55750-015-0.
  • Campbell, John (1985). Naval Weapons of World War Two. Naval Institute Press. ISBN 978-0870214592.
  • Carpenter, Dorr B. & Polmar, Norman (1986). Submarines of the Imperial Japanese Navy 1904–1945. London: Conway Maritime Press. ISBN 0-85177-396-6.
  • Chesneau, Roger biên tập (1980). Conway's All the World's Fighting Ships 1922–1946. Greenwich, UK: Conway Maritime Press. ISBN 0-85177-146-7.
  • Hashimoto, Mochitsura (1954). Sunk: The Story of the Japanese Submarine Fleet 1942 – 1945. Colegrave, E.H.M. (translator). London: Cassell and Company. ASIN B000QSM3L0.
  • Milanovich, Kathrin (2021). “The IJN Submarines of the I 15 Class”. Trong Jordan, John (biên tập). Warship 2021. Oxford, UK: Osprey Publishing. tr. 29–43. ISBN 978-1-4728-4779-9.
  • Stille, Mark (2007). Imperial Japanese Navy Submarines 1941-45. New Vanguard. 135. Botley, Oxford, UK: Osprey Publishing. ISBN 978-1-84603-090-1.

Liên kết ngoài[sửa | sửa mã nguồn]