Bước tới nội dung

Halichoeres argus

Bách khoa toàn thư mở Wikipedia
Halichoeres argus
Tình trạng bảo tồn
Phân loại khoa học
Giới (regnum)Animalia
Ngành (phylum)Chordata
Lớp (class)Actinopterygii
Bộ (ordo)Labriformes
Họ (familia)Labridae
Chi (genus)Halichoeres
Loài (species)H. argus
Danh pháp hai phần
Halichoeres argus
(Bloch & Schneider, 1801)
Danh pháp đồng nghĩa
  • Labrus guttatus Bloch, 1791
  • Labrus argus Bloch & Schneider, 1801
  • Julis leparensis Bleeker, 1853
  • Julis polyophthalmus Bleeker, 1853
  • Halichoeres fijiensis Herre, 1935

Halichoeres argus là một loài cá biển thuộc chi Halichoeres trong họ Cá bàng chài. Loài này được mô tả lần đầu tiên vào năm 1801.

Từ nguyên

[sửa | sửa mã nguồn]

Từ định danh argus được đặt theo tên của Argus Panoptes, một người khổng lồ trăm mắt bảo vệ nữ thần Io, sau khi chết đi thì con mắt của Argus được đính trên lông đuôi của chim công, hàm ý đề cập đến các đốm đỏ được viền xanh lam và đen trên mỗi vảy của cá đực.[2]

Phạm vi phân bố và môi trường sống

[sửa | sửa mã nguồn]

Ấn Độ Dương, H. argus được biết đến tại Sri Lankabiển Andaman; còn ở Thái Bình Dương, loài này được phân bố từ quần đảo Ryukyu (Nhật Bản), băng qua vùng biển các nước Đông Nam Á trải dài xuống phía nam đến Bắc Queensland (Úc), phía đông đến FijiTonga.[1][3]

Việt Nam, H. argus được ghi nhận tại cù lao Chàm (Quảng Nam);[4] đảo Lý Sơn (Quảng Ngãi);[5] bờ biển Ninh Thuận;[6] vịnh Nha Trangquần đảo Trường Sa.[7]

H. argus sống trên các rạn viền bờ, thảm cỏ biển hoặc tảo ở vùng biển ngoài khơi và trong đầm phá ở độ sâu đến ít nhất là 15 m.[3]

H. argus có chiều dài cơ thể tối đa được ghi nhận là 12 cm. Cá đực trưởng thành hoàn toàn, cá cái và cá con có kiểu hình khác biệt hoàn toàn.[3] Loài J. leparensis được mô tả đựa trên kiểu hình của H. argus cái.[8]

Số gai ở vây lưng: 9; Số tia vây ở vây lưng: 11–12; Số gai ở vây hậu môn: 3; Số tia vây ở vây hậu môn: 11–12; Số tia vây ở vây ngực: 14; Số gai ở vây bụng: 1; Số tia vây ở vây bụng: 5.[8]

Sinh thái học

[sửa | sửa mã nguồn]

Thức ăn của H. argus có thể là các loài thủy sinh không xương sống.

Thương mại

[sửa | sửa mã nguồn]

H. argus được đánh bắt trong các hoạt động buôn bán cá cảnh nhưng không phổ biến.[1]

Tham khảo

[sửa | sửa mã nguồn]
  1. ^ a b c Choat, J. H. (2010). Halichoeres argus. Sách đỏ IUCN về các loài bị đe dọa. 2010: e.T187451A8539062. doi:10.2305/IUCN.UK.2010-4.RLTS.T187451A8539062.en. Truy cập ngày 25 tháng 1 năm 2022.
  2. ^ Scharpf, Christopher; Lazara, Kenneth J. (2021). “Order Labriformes: Family Labridae (a-h)”. The ETYFish Project Fish Name Etymology Database. Truy cập ngày 25 tháng 1 năm 2022.
  3. ^ a b c Ranier Froese và Daniel Pauly (chủ biên). Thông tin Halichoeres argus trên FishBase. Phiên bản tháng 6 năm 2024.
  4. ^ Nguyễn Văn Long; Mai Xuân Đạt (2020). “Đặc trưng nguồn lợi cá trong các hệ sinh thái ở khu dự trữ sinh quyển thế giới Cù Lao Chàm - Hội An” (PDF). Vietnam Journal of Marine Science and Technology. 20 (1): 105–120. doi:10.15625/1859-3097/13553. ISSN 1859-3097.
  5. ^ Mai Xuân Đạt; Phan Thị Kim Hồng (2017). “Thành phần loài và phân bố của quần xã cá trong hệ sinh thái vùng triều khu bảo tồn biển Lý Sơn, tỉnh Quảng Ngãi” (PDF). Tạp chí Khoa học và Công nghệ Biển. 17 (4A): 177–187.Quản lý CS1: sử dụng tham số tác giả (liên kết)
  6. ^ Mai Xuân Đạt; Nguyễn Văn Long; Phan Thị Kim Hồng (2020). “Cá rạn san hô ở vùng biển ven bờ tỉnh Ninh Thuận” (PDF). Tạp chí Khoa học và Công nghệ biển. 20 (4A): 125–139. doi:10.15625/1859-3097/15656. ISSN 1859-3097.
  7. ^ Capuli, Estelita Emily; Casal, Christine Marie V. (biên tập). Halichoeres argus (Bloch & Schneider, 1801)”. FishBase. Truy cập ngày 25 tháng 1 năm 2022.Quản lý CS1: nhiều tên: danh sách biên tập viên (liên kết)
  8. ^ a b Randall, John E. (1980). “Two new Indo-Pacific labrid fishes of the genus Halichoeres, with notes on other species of the genus” (PDF). Pacific Science. 34 (4): 415–432.