HMS Shah (D21)
Tàu sân bay hộ tống HMS Shah, trên đường đi từ Alameda đến Cochin, Ấn Độ ngang qua Williamstown, Victoria, Australia vào tháng 1 năm 1944. Ngoài số máy bay thường lệ, nó đang vận chuyển những chiếc Curtiss P-40 trên sàn đáp.
| |
Lịch sử | |
---|---|
Hoa Kỳ | |
Tên gọi | USS Jamaica |
Xưởng đóng tàu | Seattle-Tacoma Shipbuilding Corporation, Tacoma, Washington |
Đặt lườn | 13 tháng 11 năm 1942 |
Hạ thủy | 21 tháng 4 năm 1943 |
Người đỡ đầu | Bà C. T. Simard |
Xếp lớp lại | CVE-43, 15 tháng 7 năm 1943 |
Số phận | chuyển cho Hải quân Hoàng gia Anh |
Lịch sử | |
Anh Quốc | |
Tên gọi | HMS Shah |
Nhập biên chế | 27 tháng 9 năm 1943 |
Xuất biên chế | 7 tháng 2 năm 1946 |
Đổi tên | Salta |
Số phận |
|
Đặc điểm khái quát | |
Lớp tàu | Lớp Ameer |
Trọng tải choán nước | 7.800 tấn |
Chiều dài | 151 m (495 ft 7 in) |
Sườn ngang | 21,2 m (69 ft 6 in) |
Mớn nước | 7,9 m (26 ft) |
Công suất lắp đặt | 8.500 mã lực (6,3 MW) |
Động cơ đẩy |
|
Tốc độ | 33,3 km/h (18 knot) |
Thủy thủ đoàn | 890 |
Vũ khí |
|
Máy bay mang theo | 12-24 |
Hệ thống phóng máy bay | 2 × thang nâng |
HMS Shah (D21), nguyên là tàu sân bay hộ tống USS Jamaica (CVE-43) (ký hiệu lườn ban đầu AVG-43 và sau đó là ACV-43) của Hải quân Hoa Kỳ thuộc lớp Bogue, được chuyển cho Hải quân Hoàng gia Anh Quốc và đã hoạt động trong Chiến tranh Thế giới thứ hai.
Jamaica được đặt lườn theo một hợp đồng với Ủy ban Hàng hải Hoa Kỳ với số hiệu lườn MC 254 vào ngày 13 tháng 11 năm 1942 tại xưởng đóng tàu của hãng Seattle-Tacoma Shipbuilding ở Tacoma, Washington; nó được hạ thủy vào ngày 21 tháng 4 năm 1943, được đỡ đầu bởi Bà C. T. Simard, và được xếp lại lớp với ký hiệu lườn CVE-43 vào ngày 15 tháng 7 năm 1943. Nó được chuyển cho Anh Quốc vào ngày 27 tháng 9 năm 1943 theo chương trình Cho thuê-cho mượn, và được đổi tên thành HMS Shah (D21), và đã hoạt động trong chiến tranh như một chiếc thuộc lớp Ameer.
Dưới quyền chỉ huy của Chuẩn Đô đốc tương lai William John Yendell,[1] Shah phục vụ trong vai trò chống tàu ngầm tại Đại Tây Dương; lực lượng máy bay phối thuộc thường xuyên của nó bao gồm 12 máy bay ném bom-ngư lôi Grumman Avenger II và một tốp máy bay tiêm kích Wildcat thuộc Phi đội 851 Không lực Hải quân Hoàng gia. Nó đã hoạt động tích cực trong cuộc chiến, dẫn đầu đội đặc nhiệm tìm-diệt vốn đã đánh chìm tàu ngầm Đức U-198 tại Ấn Độ Dương vào ngày 12 tháng 8 năm 1944, cũng như tham gia chiến dịch Miến Điện năm 1945, phát hiện ra chiếc tàu tuần dương Nhật Haguro vốn bị đánh chìm trong "Chiến dịch Dukedom".
Sau chiến tranh, nó được hoàn trả cho Hoa Kỳ vào ngày 6 tháng 12 năm 1945, rồi được bán để hoạt động hàng hải thương mại tư nhân vào ngày 20 tháng 6 năm 1947 dưới tên gọi Salta. Vào năm 1963 nó tham gia vào việc tiếp cứu chiếc Lakonia. Nó được tháo dỡ tại Buenos Aires vào năm 1966.
Tham khảo
[sửa | sửa mã nguồn]- Bài này có các trích dẫn từ nguồn en:Dictionary of American Naval Fighting Ships thuộc phạm vi công cộng
Liên kết ngoài
[sửa | sửa mã nguồn]- History and Photos at royalnavyresearcharchive.org.uk
- Photo gallery at Navsource.org