Bước tới nội dung

HMS Perseus (N36)

37°54′B 20°54′Đ / 37,9°B 20,9°Đ / 37.900; 20.900
Bách khoa toàn thư mở Wikipedia
Lịch sử
Anh Quốc
Tên gọi HMS Perseus (N36)
Đặt tên theo Perseus
Đặt hàng 7 tháng 2, 1928 [1]
Xưởng đóng tàu Vickers-Armstrongs, Barrow in Furness
Đặt lườn 2 tháng 7, 1928
Hạ thủy 22 tháng 5, 1929
Nhập biên chế 15 tháng 4, 1930
Số phận Đắm do trúng mìn gần đảo Cephalonia, Hy Lạp, 6 tháng 12, 1941[1][2]
Đặc điểm khái quát
Lớp tàu tàu ngầm lớp Parthian
Kiểu tàu tàu ngầm Diesel-điện
Trọng tải choán nước
  • 1.475 tấn Anh (1.499 t) (nổi)
  • 2.040 tấn Anh (2.070 t) (ngầm)
Chiều dài 260 ft (79,2 m)
Sườn ngang 28 ft (8,5 m)
Mớn nước 13 ft 8 in (4,17 m)
Động cơ đẩy
Tốc độ
Tầm xa
  • 8.500 hải lý (15.700 km) ở tốc độ 10 hải lý trên giờ (19 km/h) (nổi)
  • 70 hải lý (130 km) ở tốc độ 4 hải lý trên giờ (7,4 km/h) (lặn)
Thủy thủ đoàn tối đa 59
Vũ khí

HMS Perseus (N36) là một tàu ngầm lớp Parthian được Hải quân Hoàng gia Anh chế tạo vào cuối thập niên 1920. Nó là chiếc tàu chiến thứ năm của Hải quân Anh được đặt cái tên này, theo tên Perseus, một nhân vật trong thần thoại Hy Lạp. Nhập biên chế năm 1930, nó được phái sang phục vụ tại Viễn Đông cho đến khi Chiến tranh Thế giới thứ hai bùng nổ, và được điều về tăng cường cho lực lượng tại Địa Trung Hải khi Ý tuyên chiến với Pháp. Trong một chuyến tuần tra trong biển Ionian, Perseus bị mất do trúng thủy lôi gần đảo Cephalonia, Hy Lạp vào ngày 6 tháng 12, 1941.

Thiết kế và chế tạo

[sửa | sửa mã nguồn]

Thiết kế

[sửa | sửa mã nguồn]

Lớp Parthian được chế tạo với một thiết kế cải tiến hơn so với lớp Odin;[3] có mũi tàu dốc nghiêng và tăng cường tấm chắn cho khẩu hải pháo trên boong.[4] Lớp này vẫn tồn tại một khiếm khuyết có từ lớp Odin, nơi các thùng nhiên liệu hình yên ngựa được ghép vào vỏ tàu bằng đinh tán dễ bị rò rỉ, khiến dầu diesel nổi lên và làm lộ vị trí của tàu ngầm.[5]

Những chiếc lớp Parthian có chiều dài chung 289 ft (88 m), mạn tàu rộng 28 ft (8,5 m) và mớn nước sâu 13 ft 8 in (4,17 m).[6] Nó có trọng lượng choán nước 1.475 tấn Anh (1.499 t) khi nổi và 2.040 tấn Anh (2.073 t) khi lặn.[3][6] Con tàu được vận hành bằng hai động cơ diesel Admiralty 8-xy lanh công suất 4.640 bhp (3.460 kW)[7] cùng hai động cơ điện công suất 1.635 shp (1.219 kW),[3] [5] mỗi chiếc dẫn động một trục chân vịt.[6] Nó đạt được tốc độ tối đa 17,5 kn (32,4 km/h) trên mặt nước và 9 kn (17 km/h) khi di chuyển ngầm.[6]

Lớp Parthian có thủy thủ đoàn đầy đủ 53 người.[4] Con tàu trang bị một hải pháo QF 4-inch/40 Mk IV, hai súng máy Lewis,[3][4] cùng tám ống phóng ngư lôi 533 milimét (21,0 in),[8] gồm sáu ống trước mũi và hai ống phía đuôi, và mang theo tổng cộng 24 ngư lôi.[3] Parthian là lớp tàu ngầm Anh đầu tiên được trang bị ngư lôi 21 in (530 mm) Mark VIII.[8]

Chế tạo

[sửa | sửa mã nguồn]

Perseus được đặt hàng vào ngày 7 tháng 2, 1928, và được đặt lườn tại xưởng tàu của hãng Vickers-Armstrongs tại Barrow-in-Furness vào ngày 2 tháng 7, 1928. Nó được hạ thủy vào ngày 22 tháng 5, 1929 và nhập biên chế cùng Hải quân Hoàng gia Anh vào ngày 15 tháng 4, 1930.[1]

Lịch sử hoạt động

[sửa | sửa mã nguồn]

1931 - 1939

[sửa | sửa mã nguồn]

Sau khi nhập biên chế, Perseus được phái sang Viễn Đông và đã phục vụ tại Trạm Trung Hoa từ năm 1931 đến năm 1940, hoạt động từ các căn cứ Hong KongSingapore.[1]

Sau khi Chiến tranh Thế giới thứ hai bùng nổ, nó được phái sang tăng cường cho lực lượng tại Địa Trung Hải, và đã khởi hành từ Hong Kong vào ngày 18 tháng 6, 1940;[1] lần lượt đi ngang qua Singapore; Colombo, Ceylon; Adenkênh đào Suez trước khi đi đến Alexandria, Ai Cập vào ngày 3 tháng 8, nơi nó gia nhập Chi hạm đội tàu ngầm 1.[1] Chiếc tàu ngầm bắt đầu hoạt động tuần tra trong Địa Trung Hải từ các căn cứ Alexandria và Malta.[1]

Vào ngày 26 tháng 8, Perseus đã phóng bốn quả ngư lôi tấn công tàu buôn Ý Filippo Grimani 3.431 GRT ở vị trí ngoài khơi Durazzo, Albania, nhưng không trúng đích.[2][1] Sau đó chiếc tàu ngầm trải qua một đợt đại tu trong ụ tàu tại Malta từ ngày 17 tháng 10, 1940 đến ngày 4 tháng 5, 1941.[1]

Trong một chuyến tuần tra trong biển Aegean, vào ngày 5 tháng 9, 1941, Perseus đã phóng ngư lôi đánh chìm tàu chở dầu Ý Maya 3.867 GRT ở vị trí về phía Nam đảo Tenedos, Thổ Nhĩ Kỳ, tại tọa độ 39°43′B 25°57′Đ / 39,717°B 25,95°Đ / 39.717; 25.950.[2][1] Trong chuyến tuần tra tiếp theo trong vịnh Sidra, Libya, vào ngày 2 tháng 10, chiếc tàu ngầm đã phóng ngư lôi đánh chìm tàu buôn Đức Castellon 2.086 GRT ở vị trí khoảng 50 nmi (93 km) về phía Tây Bắc Benghazi, tại tọa độ 32°30′B 19°09′Đ / 32,5°B 19,15°Đ / 32.500; 19.150.[2][1] Nó cũng tấn công tàu buôn Đức Savona 2.120 GRT trong đợt này nhưng không trúng đích.[2][1]

Vào ngày 4 tháng 12, Perseus đã phóng ngư lôi đánh chìm tàu buôn Ý Eridano 3.586 GRT ở vị trí cách mũi Dukato thuộc đảo Lefkada, Hy Lạp 6 nmi (11 km).[2][1] Chỉ hai ngày sau đó, 4 tháng 12, 1941, Perseus trúng thủy lôi gần đảo Cephalonia, khoảng 7 mi (11 km) về phía Bắc đảo Zakinthos trong biển Ionian, tại tọa độ 37°54′B 20°54′Đ / 37,9°B 20,9°Đ / 37.900; 20.900.[2][1] John Capes là hành khách duy nhất trong tổng số 61 người trên tàu sống sót. Anh sử dụng thiết bị thoát hiểm ngầm Davis, cùng ba người khác thoát ra qua cửa nắp phòng động cơ, và trồi lên mặt biển;[9] nhưng chỉ duy nhất còn lại John Capes sau khi bơi suốt 5 mi (8,0 km) đến đảo Cephalonia. Anh được người dân trên đảo che dấu trong suốt 18 tháng trước khi được đưa đến Smyrna, Thổ Nhĩ Kỳ.[10]

Khám phá xác tàu đắm

[sửa | sửa mã nguồn]

Vào năm 1997, một đội thợ lặn do Kostas Thoctarides dẫn đầu đã tìm thấy và khảo sát xác tàu đắm của Perseus ở độ sâu 52 m (171 ft). Xác tàu nằm dưới đáy biển và nghiêng sang mạn trái, với hư hại duy nhất là vết nứt bên mạn trái mũi tàu do vụ nổ của quả thủy lôi; phần còn lại của con tàu hầu như nguyên vẹn, và cửa nắp thoát hiểm phòng động cơ được mở. Một dây neo thủy lôi của Ý được tìm thấy gần xác tàu, hầu như là nguyên nhân của việc con tàu bị đắm, cho dù không thể khẳng định chắc chắn lý do đắm tàu.[1]

Một bia tưởng niệm Perseus được đặt trên đảo Cephalonia vào ngày 20 tháng 5, 2000. [11][12]

Tham khảo

[sửa | sửa mã nguồn]

Chú thích

[sửa | sửa mã nguồn]
  1. ^ a b c d e f g h i j k l m n o Helgason, Guðmundur. “HMS Perseus (i) (N 36) - Submarine of the P class”. Allied Warships - uboat.net. Truy cập ngày 19 tháng 11 năm 2024.
  2. ^ a b c d e f g Chalcraft, Geoff. “Pandora to Proteus: Perseus”. British Submarines of World War II. Bản gốc lưu trữ ngày 1 tháng 1 năm 2012. Truy cập ngày 12 tháng 1 năm 2012.
  3. ^ a b c d e Gardiner & Chesneau (1980), tr. 48.
  4. ^ a b c “Parthian Class”. Britsub.net. Lưu trữ bản gốc ngày 5 tháng 8 năm 2012. Truy cập ngày 30 tháng 7 năm 2011.
  5. ^ a b Brown (2000), tr. 109.
  6. ^ a b c d Helgason, Guðmundur. “O class - Submarine”. Allied Warships - uboat.net. Truy cập ngày 15 tháng 11 năm 2024.
  7. ^ “Parthian Class”. Submariners Association. Bản gốc lưu trữ ngày 14 tháng 3 năm 2012. Truy cập ngày 29 tháng 7 năm 2011.
  8. ^ a b Ward (2001), tr. 35.
  9. ^ “Submarine Casualties Booklet”. U.S. Naval Submarine School. 1966. Lưu trữ bản gốc ngày 27 tháng 7 năm 2011. Truy cập ngày 8 tháng 9 năm 2009. Chú thích journal cần |journal= (trợ giúp)
  10. ^ Clayton, Tim (2 tháng 12 năm 2011). “Submarine escape: A WWII survival tale from Kefalonia”. BBC. Truy cập ngày 4 tháng 12 năm 2011.
  11. ^ Giatropoulou & Thoktarides (2005), tr. 93-97.
  12. ^ Smith, Helena (31 tháng 8 năm 2000). “Corelli's island split by Briton's great escape”. The Guardian. Truy cập ngày 15 tháng 10 năm 2020.

Thư mục

[sửa | sửa mã nguồn]

Liên kết ngoài

[sửa | sửa mã nguồn]