Bước tới nội dung

HMCS Skeena (D59)

Bách khoa toàn thư mở Wikipedia
HMCS Skeena
Tàu khu trục HMCS Skeena
Lịch sử
Canada
Tên gọi HMCS Skeena
Đặt tên theo sông Skeena
Đặt hàng 6 tháng 3 năm 1928
Xưởng đóng tàu John I. Thornycroft & Company, Woolston, Hampshire, Anh
Đặt lườn 14 tháng 10 năm 1929
Hạ thủy 10 tháng 10 năm 1930
Nhập biên chế 10 tháng 6 năm 1931
Số phận Đắm trong một cơn bão ngày 25 tháng 10 năm 1944 ngoài khơi Reykjavík, Iceland
Đặc điểm khái quát
Lớp tàu
Trọng tải choán nước 1.337 tấn Anh (1.358 t) (tiêu chuẩn)
Chiều dài
  • 390 ft (120 m) (mực nước)
  • 320 ft (98 m) (chung)
Sườn ngang 32 ft (9,8 m)
Mớn nước 12,2 ft (3,7 m)
Động cơ đẩy
  • 2 × turbine hơi nước hộp số Thornycroft; 3 × nồi hơi Admiralty;
  • 2 × trục;
  • công suất 32.000 shp (24.000 kW)
Tốc độ 31 hải lý trên giờ (57 km/h)
Tầm xa 5.000 nmi (9.300 km) ở tốc độ 15 kn (28 km/h)
Thủy thủ đoàn tối đa 181
Vũ khí

HMCS Skeena (D59/I59) là một tàu khu trục thuộc lớp River của Hải quân Hoàng gia Canada đã phục vụ từ năm 1931 đến năm 1944. Nó tương tự như những chiếc tàu khu trục lớp A của Hải quân Hoàng gia Anh Quốc.

Skeena được chế tạo bởi hãng John I. Thornycroft & Company tại Woolston, Hampshire, Anh; và đưa vào phục vụ cùng Hải quân Hoàng gia Canada ngày 10 tháng 6 năm 1931 tại Portsmouth, Anh. Nó cùng với con tàu chị em HCMS Saguenay là những chiếc đầu tiên được chế tạo đặc biệt cho Hải quân Canada. Nó về đến Halifax vào ngày 3 tháng 7 năm 1931.

Khi Chiến tranh Thế giới thứ hai nổ ra, Skeena đã cứu vớt 65 người sống sót từ chiếc tàu buôn Anh Manipur, vốn bị tàu ngầm Đức U-57 đánh chìm ngoài khơi mũi Wrath vào ngày 17 tháng 7 năm 1940. Vào ngày 2 tháng 9, nó đã cứu vớt 19 người sống sót từ chiếc tàu buôn Anh Thornlea bị tàu ngầm U-46 đánh chìm tại Bắc Đại Tây Dương. Đến ngày 23 tháng 11, nó lại vớt 6 người sống sót từ chiếc tàu buôn Na Uy Bruce bị hư hại bởi tàu ngầm U-100 cùng 9 người từ chiếc tàu buôn Na Uy Salonica bị U-100 đánh chìm gần đó.

Skeena được phân về Đội hộ tống C-3 và đã hộ tống các đoàn tàu vận tải ON 93, HX 191,[1] ONS 104, SC 90, ON 115, HX 202, ON 121, SC 98,[2] ON 131, HX 210, ON 141, SC 109, ON 152[3] trước khi được tái trang bị vào tháng 1 năm 1943.[4] Vào ngày 31 tháng 7 năm 1942, nó ghi được chiến công đầu tiên khi cùng với HMCS Wetaskiwin thả mìn sâu đánh chìm được tàu ngầm Đức U-588 trong khi đang hộ tống đoàn tàu vận tải ON 115 ở tọa độ 49°59′B 36°36′T / 49,983°B 36,6°T / 49.983; -36.600 (Sinking of U-588).

Skeena bị mất trong một cơn bão vào đêm 24 tháng 10 năm 1944. Nó thả neo ngoài khơi Reykjavík, Iceland khi bị gió bão giật đứt dây neo và bị các cơn sóng cao 50 foot (15 m) đẩy mắc cạn ngoài khơi đảo Viðey với tổn thất 15 thành viên thủy thủ đoàn thiệt mạng. Lườn tàu bị loại bỏ và được bán cho Iceland vào tháng 6 năm 1945. Nó được cho nổi trở lại và tháo dỡ sau đó. Chân vịt con tàu được trục vớt và bảo tồn tại một đài lưu niệm gần bến phà của đảo Viðey.[5][6][7]

Tham khảo

[sửa | sửa mã nguồn]
  1. ^ “HX convoys”. Andrew Hague Convoy Database. Truy cập ngày 19 tháng 6 năm 2011.
  2. ^ “SC convoys”. Andrew Hague Convoy Database. Truy cập ngày 19 tháng 6 năm 2011.
  3. ^ “ON convoys”. Andrew Hague Convoy Database. Truy cập ngày 19 tháng 6 năm 2011.
  4. ^ North Atlantic Run, Marc Milner, 1985, Naval Institute Press ISBN 0-87021-450-0
  5. ^ “Remember the 24”. Bản gốc lưu trữ ngày 13 tháng 8 năm 2007. Truy cập ngày 4 tháng 11 năm 2012.
  6. ^ “Funds needed for HMCS Skeena memorial in Iceland Lookout, 23 Jan 2006”. Bản gốc lưu trữ ngày 24 tháng 8 năm 2007. Truy cập ngày 4 tháng 11 năm 2012.
  7. ^ uboat.net page
  • Macpherson, Keneth R.; Burgess, John (1982). The Ships of Canada's Naval Forces 1910-1981. Collins Publishers. ISBN 0-00-216856-1.
  • www.warsailors.com
  • www.convoyweb.org.uk