Guiding Light
Guiding Light | |
---|---|
Tên khác | The Guiding Light GL |
Thể loại | Opera xà phòng |
Quốc gia | Hoa Kỳ |
Ngôn ngữ | tiếng Anh |
Số mùa | NBC và CBS: 19 (phát thanh)
CBS: 57 (truyền hình; có bao gồm 4 năm cả phát thanh lẫn truyền hình) Tổng: 72 |
Số tập | NBC: 2,500 (phát thanh)
CBS: 15,762 (phát thành & truyền hình) Tổng: 18,262 |
Sản xuất | |
Nhà sản xuất | Irna Phillips và Emmons Carlson |
Địa điểm | Chicago, Illinois (1937–47) Los Angeles, California (1947–49) Thành phố New York (1949–2009) |
Thời lượng | 15 phút (1937–1968) 30 phút (1968–1977) 60 phút (1977–2009) |
Trình chiếu | |
Kênh trình chiếu | NBC Radio (1937–1946)
CBS Radio (1947–1956) CBS (1952–2009) |
Thông tin khác | |
Chương trình liên quan | Days of Our Lives |
Guiding Light (hay còn gọi là The Guiding Light trước năm 1975; GL) là một bộ phim kịch xà phòng phát thanh và truyền hình của Mỹ. Phim đã được ghi vào Kỷ lục Guinness Thế giới là bộ phim truyền hình dài thứ nhất trong lịch sử nước Mỹ tính đến năm 2009, phát sóng trên kênh truyền hình CBS trong suốt 57 năm kể từ ngày 30 tháng 6 năm 1952 cho đến ngày 18 tháng 9 năm 2009, trong đó có 19 năm phát thanh qua radio (từ năm 1937 đến năm 1956). Với 72 năm phát thanh và truyền hình, Guiding Light là loạt phim kịch xà phòng dài nhất và là chương trình dài thứ tư trong lịch sử phát sóng các chương trình.
Khi ra mắt trên đài phát thanh vào năm 1937, phim có câu chuyện tập trung vào vị Mục sư John Ruthledge và cuộc sống của những người xoay quanh ông. "The Guiding Light" - tiêu đề ban đầu của loạt phim ám chỉ đến chiếc đèn học của Ruthledge mà mọi người thường sử dụng như một dấu hiệu để họ tìm đến sự giúp đỡ của ông khi cần thiết.[1] Khi loạt phim chuyển sang việc phát sóng truyền hình vào những năm 1950, Bauers, một gia đình nhập cư người Đức lần đầu tiên đã được giới thiệu vào năm 1948 và sau đó trở thành tâm điểm của phim.[2] Các gia đình và nhân vật khác cũng đã được giới thiệu trong suốt thời gian diễn ra phim, bao gồm gia đình Norrises vào những năm 1960; gia đình Marlers và Spauldings vào những năm 1970; gia đình Coopers, Lewises và Reardons vào những năm 1980.
Guiding Light được tạo ra bởi Irna Phillips và Emmons Carlson, và được khởi đầu như một loạt phim của Đài NBC bắt đầu từ ngày 25 tháng 1 năm 1937. Vào ngày 2 tháng 6 năm 1947, loạt phim đã được chuyển đến Đài phát thanh CBS[3] trước khi bắt đầu lên sóng vào ngày 30 tháng 6 năm 1952 trên sóng truyền hình CBS. Phim sau đó vẫn tiếp tục được phát trên đài phát thanh cho đến ngày 29 tháng 6 năm 1956.[4] Loạt phim sau đó đã được mở rộng từ 15 phút lên nửa giờ trong năm 1968 (cũng chuyển từ ghi hình trực tiếp sang ghi hình trước trong khoảng thời gian này) và sau đó là một giờ đầy đủ vào ngày 7 tháng 11 năm 1977. Bộ phim đã phát sóng đến tập thứ 15.000 trên CBS vào ngày 6 tháng 9 năm 2006.
Vào ngày 1 tháng 4 năm 2009, CBS đã thông báo rằng sẽ dừng Guiding Light sau 72 năm phát sóng (19 năm trên đài phát thanh và 57 năm trên truyền hình) do xếp hạng người xem thấp. Loạt phim đã ghi lại những cảnh phim cuối cùng vào ngày 11 tháng 8 năm 2009, và tập cuối cùng của phim đã được phát sóng vào ngày 18 tháng 9 năm 2009.[5][6] Vào ngày 5 tháng 10 năm 2009, CBS đã thay thế Guiding Light bằng chương trình gameshow kéo dài một giờ Let's Make a Deal do Wayne Brady tổ chức.
Nguồn gốc, cốt truyện, diễn viên
[sửa | sửa mã nguồn]Guiding Light đã có một số cốt truyện và diễn viên mới trong suốt lịch sử phát sóng của phim, trên cả đài phát thanh lẫn truyền hình. Các trình tự cốt truyện này bao gồm các tình tiết phức tạp, với các tác giả và dàn diễn viên khác nhau.
Thập niên 1930 và 1940
[sửa | sửa mã nguồn]Loạt phim ban đầu được tạo ra bởi Emmons Carlson và Irna Phillips, những nhà văn nghiệp dư. Sau khi sinh con ở tuổi 19, Emmons đã được truyền cảm hứng và cảm thấy thoải mái về tinh thần khi nghe các bài giảng trên đài phát thanh của Preston Bradley, một nhà thuyết giáo nổi tiếng ở Chicago. Những bài giảng này đã khởi nguồn cho ý tưởng tạo ra The Guiding Light với bắt đầu như một loạt phim radio. Buổi phát sóng (15 phút) đầu tiên đã được phát thanh trên đài NBC vào ngày 25 tháng 1 năm 1937. Loạt phát thanh sau đó đã được chuyển đến Đài CBS trong năm 1947.
Thập niên 1950
[sửa | sửa mã nguồn]The Guiding Light đã được phát sóng lần đầu tiên trên Đài truyền hình CBS vào ngày 30 tháng 6 năm 1952, thay thế cho vở kịch xà phòng The First Hundred Years đã bị hủy bỏ. Các tập phim phát sóng này cũng dài 15 phút. Trong khoảng thời gian từ năm 1952 đến năm 1956, The Guiding Light tồn tại như một loạt phim phát thanh và truyền hình, với các diễn viên ghi lại màn trình diễn của họ hai lần cho mỗi tập phim được phát sóng. Việc phát sóng trên đài phát thanh của The Guiding Light đã ngừng lại trong năm 1956 nhằm chấm dứt sự chồng chéo này.[1]
The Guiding Light trong khoảng thời gian này đã có được những xếp hạng người xem cao, đặc biệt là vào hai năm 1956 và 1957 khi có xếp hạng số một trên toàn quốc, trước khi bị thay thế vào năm 1958 bởi As the World Turns.[7] Sau khi Irna Phillips được chuyển đến As the World Turns vào năm 1958, người biên tập của Emmons là Agnes Nixon đã trở thành biên kịch chính của The Guiding Light.
Thập niên 1960
[sửa | sửa mã nguồn]Agnes Nixon đã từ bỏ vai trò biên kịch chính trong phim năm 1965 để làm việc cho loạt phim Another World. Vào ngày 13 tháng 3 năm 1967, The Guiding Light lần đầu tiên đã được phát sóng dưới hình màu sắc. Vào ngày 9 tháng 9 năm 1968, loạt phim được mở rộng từ 15 đến 30 phút.
Trong những năm 1960, phim đã có sự ra đời của các nhân vật người Mỹ gốc Phi, và trọng tâm chính của loạt phim chuyển sang con của Bill và Bert, Mike và Ed; nhân vật của Bill Bauer sau đó được viết ra vào tháng 7 năm 1969, người được cho là đã chết sau một vụ tai nạn máy bay. Cốt truyện phim cũng trở nên thay đổi hơn một chút trong những năm 1960, với những cốt truyện như chẩn đoán ung thư tử cung của Bert Bauer vào năm 1962.
Một số nhân vật mới đã được giới thiệu trong khoảng thời gian từ giữa đến cuối những năm 1960, bao gồm Tiến sĩ Sara McIntyre, người vẫn là nhân vật chính cho đến đầu những năm thập niên 1980.
Thập niên 1970
[sửa | sửa mã nguồn]Phần lớn câu chuyện trong nửa đầu những năm 1970 bị chi phối bởi vụ giết người vào tháng 11 năm 1971 của Stanley Norris và các phiên tòa xử án, cũng như khai thác các nhân vật phản diện như Charlotte Waring và Kit Vested. Charlotte (lúc đó do Melinda Fee thủ vai) đã bị Kit (Nancy Addison) sát hại trong tập phim ngày 26 tháng 8 năm 1973, và sau đó chính Kit cũng bị Tiến sĩ Joe Werner (Anthony Call) bắn để tự vệ trong tập phim ngày 24 tháng 4 năm 1974.
Bị áp lực bởi những vở kịch xà phòng mới, hướng đến giới trẻ như All My Children, nhà tài trợ Procter & Gamble đã thuê Bridget và Jerome Dobson làm biên kịch trong năm 1975 và bắt đầu viết vào tháng 11 năm 1975. Hai biên kịch đã giới thiệu một phong cách viết nhiều đặc sắc hơn, nhiều lớp tâm lý hơn và bao gồm các mạch truyện hợp thời, các mối quan hệ yêu/ghét phức tạp giữa vợ chồng/anh chị em. Họ cũng tạo ra một số nhân vật được chú trọng, bao gồm Rita Stapleton, người có mối quan hệ phức tạp với Roger và Ed đã tạo nên phần lớn câu chuyện trong phần còn lại của thập kỷ, Alan Spaulding và Ross Marler, cả hai đều vẫn là những nhân vật chính cho đến những năm thập niên 2000.
Vào tháng 11 năm 1975, tên phim đã được thay đổi trong phần giới thiệu mở và kết thúc của tập phim từ The Guiding Light thành Guiding Light. Vào ngày 7 tháng 11 năm 1977, loạt phim được mở rộng thành một giờ đầy đủ và được phát sóng từ 2h30 đến 3h30 chiều hàng ngày.
Thập niên 1980
[sửa | sửa mã nguồn]Bridget và Jerome Dobson đã đảm nhận nhiệm vụ viết chính cho loạt vở kịch truyền hình As the World Turns vào cuối năm 1979. Cựu diễn viên Douglas Marland, sau đó đã đảm nhận vai trò biên kịch chính của Guiding Light vào năm 1979. Trong tháng 5 năm 1980, Guiding Light đã giành được giải Emmy cho loạt phim buổi sáng xuất sắc đầu tiên. Một trong những câu chuyện gây nhiều ấn tượng nhất của Marland là câu chuyện về nhân vật Carrie Todd Marler do Jane Elliot thủ vai. Carrie được chẩn đoán mắc chứng đa nhân cách, thế nhưng Marland lại hầu như không đi sâu vào chứng rối loạn tâm thần của nhân vật này khi hợp đồng của Elliot đột ngột bị nhà sản xuất phim Allen M. Potter chấm dứt vào năm 1982. Kết quả là Marland đã phải từ chức để phản đối.[2]
Vào đầu những năm 1980, phim bắt đầu tập trung vào các tầng lớp nhân vật trẻ hơn, như một nỗ lực để cạnh tranh với các loạt vở kịch mới của Đài ABC. Một số nhân vật lâu năm đã bị loại bỏ trong khoảng thời gian này. Nữ diễn viên Lenore Kasdorf đã bỏ loạt phim sau đó vào năm 1981, cùng với đó, mẫu hệ của gia đình Bauer, Bertha 'Bert' Bauer, cũng đã qua đời vào tháng 3 năm 1986, sau cái chết ngoài đời thực của Charita Bauer vào năm 1985. Trong năm kỷ niệm thứ 50 phát sóng Guiding Light vào năm 1987, một cam kết đã được thực hiện rằng sẽ giới thiệu gia đình Bauer ở các vai trò chính càng nhiều càng tốt, sau khi phản ứng của khán giả đối với gia đình Lewis và Shayne tại thị trấn Oklahoma trở nên trái chiều.[8] Kết quả là, gia đình Bauer đã được trở lại từ ngày 4 tháng 7 cùng năm và tiếp tục cho đến năm 2009, năm cuối cùng của loạt phim trên Đài CBS.[1]
Thập niên 1990
[sửa | sửa mã nguồn]Bước vào thập niên mới, cách kể chuyện của loạt phim đã chuyển từ phong cách quay phim trong nhà sang phong cách hiện thực hơn với một nhóm tác giả chính mới. Các gia đình Bauer, Spaulding, Lewis và Cooper đã được thành lập như những gia đình cốt lõi, và hầu hết các diễn biến cốt truyện chính đều liên quan đến họ.
Thế nhưng, bộ phim đã phải chịu những tổn thất về nhân vật chính trong những năm giữa thập kỷ, bao gồm cái chết do tai nạn xe hơi của Maureen Bauer và sự ra đi của Alexandra Spaulding khỏi câu chuyện. Khi một thập kỷ trôi qua, loạt phim đã bất ngờ phát triển một loạt các tình tiết kỳ lạ dường như là để cạnh tranh với những loạt phim như Passions và Days of Our Lives.
Trong một nỗ lực để hồi sinh loạt phim, nhân vật Reva Shayne đã được đưa trở lại Springfield vào tháng 4 năm 1995.
Những năm 2000
[sửa | sửa mã nguồn]Những năm 2000 bắt đầu với việc phân chia bối cảnh của loạt phim thành hai nơi: Springfield và đảo quốc giả tưởng San Cristobel. Ở Springfield, những câu chuyện về gia đình Santos đã tạo ra nhiều kịch tính. Trong khi đó, gia đình Winslow hoàng gia cũng có hàng loạt âm mưu của riêng họ để thu hút người xem. Tuy nhiên, trong năm 2002, San Cristobel đã bị loại khỏi loạt phim kéo theo lượng người theo dõi loạt phim sau đó đã bị sụt giảm đáng kể cùng với sự ra đi của nhân vật Danny Santos trong năm 2005, đã bị loại bỏ hoàn toàn. Ngoài ra, Guiding Light cũng đã kỷ niệm 65 năm phát sóng như một chương trình truyền hình vào ngày 30 tháng 6 năm 2002.
Trong năm 2004, cựu đạo diễn kiêm nữ diễn viên Ellen Wheeler (người từng đoạt giải Emmy với vai diễn nữ diễn viên cho loạt phim All My Children và Another World) đã đảm nhận vị trí điều hành sản xuất cho loạt phim Guiding Light. Cô và nhà văn David Kreizman đã thực hiện nhiều thay đổi đối với bối cảnh, cốt truyện và dàn diễn viên. Một số diễn viên kỳ cựu đã bị loại, chủ yếu là do ngân sách giảm. Và vì không còn sự ảnh hưởng của những cựu diễn viên gốc, Wheeler đã phải tái hiện lại một Springfield hoàn toàn mới, đặc biệt là với sự kết đôi gây tranh cãi của anh em họ Jonathan và Tammy.
Loạt phim đã kỷ niệm 70 năm phát sóng trong suốt năm 2007. Lễ kỷ niệm được kỷ niệm với sự ra đời của trang web FindYourLight.net và một chương trình tiếp cận cộng đồng, đại diện cho thông điệp ban đầu của Irna Phillips. Ngoài ra loạt phim còn có một tập đặc biệt được phát sóng vào tháng 1 năm 2007.
Mặc dù có xếp hạng thấp, phim đã giành được Giải thưởng Daytime Emmy năm 2007 cho hạng mục loạt phim truyền hình buổi sáng xuất sắc nhất (đồng giải với The Young and the Restless).
Dừng phát sóng và tập cuối cùng
[sửa | sửa mã nguồn]Vào ngày 1 tháng 4 năm 2009, CBS đã thông báo rằng họ sẽ không tiếp tục sản xuất Guiding Light, và ngày phát sóng cuối cùng được ấn định là vào ngày 18 tháng 9 năm 2009. Procter & Gamble ban đầu thông báo rằng họ sẽ cố gắng tìm một kênh truyền hình khác để tiếp tục phát sóng loạt phim, nhưng sau đó họ thừa nhận rằng họ đã không thành công trong việc làm như vậy. Cốt truyện sau đó đã được giải quyết trong những tuần cuối cùng của loạt phim, nhiều nhân vật trong quá khứ của loạt phim đã đi qua Springfield lần cuối.
Vào ngày 18 tháng 9 năm 2009, sau 57 năm phát sóng trên truyền hình (trước đó là 19 năm trên đài với tổng lịch sử phát sóng là 72 năm), Guiding Light đã kết thúc lịch sử phát sóng của mình trên Đài CBS.
Địa điểm sản xuất, phát sóng
[sửa | sửa mã nguồn]Guiding Light ban đầu được quay/sản xuất tại ba địa điểm: Chicago (từ năm 1937 đến năm 1946); Hollywood (từ năm 1947 đến năm 1949) và Thành phố New York (từ năm 1949 đến năm 2009).[3]
Trong thời gian đầu phát sóng của loạt phim trên truyền hình, không giống như hầu hết các loạt phim radio phổ biến chuyển sang truyền hình, The Guiding Light đã không gặp khó khăn trong việc giữ chân khán giả cũ và đồng thời kiếm thêm được một lượng người hâm mộ truyền hình mới. Vào thời điểm The Guiding Light ra mắt trên truyền hình, cả ABC và NBC đều không có chương trình phát sóng trên các mạng tương ứng của họ vào lúc 2:30 chiều. Sau đó loạt phim đã được chuyển khung giờ phát sóng sang 1:30 chiều. Tuy nhiên, sáu tháng sau khi chạy, mạng lưới đã chuyển chuỗi thời gian này sang một khung thời gian khiến nó trở nên phổ biến với khán giả nội trợ: 12:45 trưa/11:45 sáng.
Ngày bắt đầu | Kết thúc | Khung giờ phát sóng | Thời lượng | Mạng | Địa điểm quay |
---|---|---|---|---|---|
25 tháng 1 năm 1937 | 13 tháng 10 năm 1939 | — | 15' | NBC Red Radio | Chicago |
22 tháng 1 năm 1940 | 15 tháng 3 năm 1942 | NBC Blue Radio | |||
16 tháng 3 năm 1942 | 29 tháng 11 năm 1946 | NBC Red Radio | |||
2 tháng 6 năm 1947 | 1949 | 12:45 pm/11:45 am | CBS Radio | Hollywood | |
1949 | 29 tháng 6 năm 1956 | CBS | Thành phố New York | ||
2 tháng 7 năm 1956 | 6 tháng 9 năm 1968 | CBS Television | |||
9 tháng 9 năm 1968 | 1 tháng 9 năm 1972 | 2:30 pm/1:30 pm | 30' | ||
4 tháng 9 năm 1972 | 28 tháng 11 năm 1975 | 2:00 pm/1:00 pm | |||
1 tháng 12 năm 1975 | 4 tháng 11 năm 1977 | 2:30 pm/1:30 pm | |||
7 tháng 11 năm 1977 | 1 tháng 2 năm 1980 | 2:30 pm/1:30 pm | 60' | ||
4 tháng 2 năm 1980 | 18 tháng 9 năm 2009 | 3:00 pm/2:00 pm |
Giải thưởng
[sửa | sửa mã nguồn]Giải Daytime Emmy
[sửa | sửa mã nguồn]Tập thể
[sửa | sửa mã nguồn]- 1980 Giải loạt phim truyền hình buổi sáng xuất sắc nhất
- 1981 Giải biên kịch xuất sắc nhất
- 1982 Giải loạt phim truyền hình buổi sáng xuất sắc nhất
- 1982 Giải biên kịch xuất sắc nhất
- 1982 Giải [trong bất kỳ lĩnh vực nào] xuất sắc nhất (Đạo diễn quay phim/Ánh sáng)
- 1983 Giải [trong bất kỳ lĩnh vực nào] xuất sắc nhất (Chỉ đạo ánh sáng)
- 1984 Giải thiết kế xuất sắc nhất
- 1985 Giải đạo diễn xuất sắc nhất
- 1985 Giải nhóm thiết kế xuất sắc nhất – Ronald M. Kelson
- 1986 Giải nhóm biên kịch xuất sắc nhất
- 1986 Giải thiết kế tóc đẹp nhất
- 1986 Giải thiết kế trang phục đẹp nhất
- 1987 Giải trang điểm xuất sắc nhất
- 1987 Giải thiết kế tóc đẹp nhất
- 1990 Giải nhóm biên kịch xuất sắc nhất
- 1991 Giải bài hát hay nhất: "Love Like This"
- 1991 Giải âm nhac (sáng tác & thể hiện) hay nhất
- 1992 Giải bài hát hay nhất: "I Knew That I'd Fail"
- 1992 Giải âm nhac (sáng tác & thể hiện) hay nhất
- 1992 Giải thiết kế logo loạt phim đẹp nhất
- 1993 Giải nhóm biên kịch xuất sắc nhất
- 1993 Giải dựng phim xuất sắc nhất
- 1994 Giải đạo diễn xuất sắc nhất
- 1994 Giải âm nhạc (sáng tác & thể hiện) hay nhất
- 1995 Giải anh sáng xuất sắc nhất
- 1995 Giải trang điểm xuất sắc nhất
- 1996 Giải âm nhạc (sáng tác & thể hiện) hay nhất
- 1996 Giải trang điểm xuất sắc nhất
- 1996 Giải âm thanh xuất sắc nhất
- 1996 Giải chỉ đạo ánh sáng xuất sắc nhất
- 1998 Giải âm nhạc (sáng tác & thể hiện) xuất sắc nhất
- 1998 Giải chỉ đạo ánh sáng xuất sắc nhất
- 1998 Giải bài hát hay nhất: "Hold Me"
- 2007 Giải nhóm biên kịch xuất sắc nhất
- 2007 Giải loạt phim truyền hình buổi sáng xuất sắc nhất (cùng với The Young and the Restless)
- 2007 Giải âm nhac (sáng tác & thể hiện) xuất sắc nhất
- 2008 Giải âm nhac (sáng tác & thể hiện) xuất sắc nhất
- 2008 Giải âm thanh xuất sắc nhất
- 2008 Giải dựng phim xuất sắc nhất
Cá nhân
[sửa | sửa mã nguồn]- 1983 Giải thành tựu trọn đời: Charita Bauer (Bert Bauer)
- 1984 Giải nữ diễn viên xuất sắc trong phim: Judi Evans Luciano (Beth Raines)
- 1985 Giải cống hiến không ngừng nghỉ cho chương trình truyền hình ban ngày tại Mỹ: Charita Bauer (Bert Bauer)
- 1985 Giải nữ chính xuất sắc trong phim: Kim Zimmer (Reva Shayne)
- 1985 Giải nam diễn viên xuất sắc trong phim: Larry Gates (H.B. Lewis)
- 1987 Giải nữ chính xuất sắc trong phim: Kim Zimmer (Reva Shayne)
- 1990 Giải nữ chính xuất sắc trong phim: Kim Zimmer (Reva Shayne)
- 1991 Giải nữ diễn viên trẻ xuất sắc trong phim: Rick Hearst (Alan-Michael Spaulding)
- 1992 Giải nữ diễn viên xuất sắc trong phim: Maeve Kinkead (Vanessa Chamberlain)
- 1993 Giải nữ diễn viên xuất sắc trong phim: Ellen Parker (Maureen Reardon)
- 1993 Giải nam diễn viên trẻ xuất sắc trong phim: Monti Sharp (David Grant)
- 1994 Giải nam chính xuất sắc trong phim: Michael Zaslow (Roger Thorpe)
- 1994 Giải nam diễn viên xuất sắc trong phim: Justin Deas (Buzz Cooper)
- 1994 Giải nữ diễn viên trẻ xuất sắc trong phim: Melissa Hayden (Bridget Reardon)
- 1995 Giải nam chính xuất sắc trong phim: Justin Deas (Buzz Cooper)
- 1995 Giải nam diễn viên xuất sắc trong phim: Jerry verDorn (Ross Marler)
- 1996 Giải nam diễn viên xuất sắc trong phim: Jerry verDorn (Ross Marler)
- 1996 Giải nam diễn viên trẻ xuất sắc trong phim: Kevin Mambo (Marcus Williams)
- 1997 Giải nam chính xuất sắc trong phim: Justin Deas (Buzz Cooper)
- 1997 Giải nam diễn viên trẻ xuất sắc trong phim: Kevin Mambo (Marcus Williams)
- 1998 Giải nữ chính xuất sắc trong phim: Cynthia Watros (Annie Dutton)
- 2002 Giải nữ diễn viên xuất sắc trong phim: Crystal Chappell (Olivia Spencer)
- 2003 Giải nam diễn viên trẻ xuất sắc trong phim: Jordi Vilasuso (Tony Santos)
- 2006 Giải nữ chính xuất sắc trong phim: Kim Zimmer (Reva Shayne)
- 2006 Giải nam diễn viên xuất sắc trong phim: Jordan Clarke (Billy Lewis)
- 2006 Giải nữ diễn viên xuất sắc trong phim: Gina Tognoni (Dinah Marler)
- 2006 Giải nam diễn viên trẻ xuất sắc trong phim: Tom Pelphrey (Jonathan Randall)
- 2008 Giải nữ diễn viên xuất sắc trong phim: Gina Tognoni (Dinah Marler)
- 2008 Giải nam diễn viên trẻ xuất sắc trong phim: Tom Pelphrey (Jonathan Randall)
- 2009 Giải nam diễn viên xuất sắc trong phim: Jeff Branson (Shayne Lewis)
Các giải thưởng khác
[sửa | sửa mã nguồn]- Giải thương của hiệp hội biên kịch Mỹ (1980, 1992, 2005)
- Giải thương của hiệp hội đạo diễn Mỹ (2005)
Chú thích
[sửa | sửa mã nguồn]- ^ a b c “"Guiding Light" Signs Off: The Early Years”. CBS News. Truy cập ngày 26 tháng 1 năm 2021.
- ^ a b “"Guiding Light" Signs Off: The Bauer Family”. CBS News. Truy cập ngày 26 tháng 1 năm 2021.
- ^ a b “CBS Cancels THE GUIDING LIGHT After 57 Years”. Glued to the Tube. ngày 3 tháng 4 năm 2009.
- ^ Dunning, John (1998). On the Air: The Encyclopedia of Old-Time Radio. Oxford University Press. tr. 299–302. ISBN 0-19-507678-8. Truy cập ngày 9 tháng 4 năm 2020.
- ^ Stanglin, Doug (ngày 12 tháng 8 năm 2009). “'Guiding Light' shoots last episode after 76 years”. USA Today. Bản gốc lưu trữ ngày 17 tháng 8 năm 2009. Truy cập ngày 4 tháng 5 năm 2010.
- ^ Carter, Bill. "CBS Turns Out 'Guiding Light'." The New York Times. ngày 2 tháng 4 năm 2009.
- ^ Waggett, Gerard J. (tháng 11 năm 1997). “Part VI: Soap Opera Nielsen Ratings”. The Soap Opera Encyclopedia. HarperPaperbacks. tr. 625–642. ISBN 0-06-101157-6.
- ^ At 50, Guiding Light Recalls Its Past