Bước tới nội dung

Glory (album của Britney Spears)

Bách khoa toàn thư mở Wikipedia
Glory
Bìa album gốc có hình ảnh cận cảnh Spears với ánh sáng rực rỡ ở phía sau. Tên album được viết ở trên cùng, trong khi tên của Spears được viết bên dưới.
Bìa bản tiêu chuẩn gốc và bản cao cấp
Album phòng thu của Britney Spears
Phát hành26 tháng 8 năm 2016 (2016-08-26)
Thu âmTháng 9, 2014 – Tháng 6, 2016
Phòng thu
Thể loại
Thời lượng41:27
Hãng đĩaRCA
Sản xuất
Thứ tự album của Britney Spears
Britney Jean
(2013)
Glory
(2016)
Oops!...I Did It Again (Remixes and B-Sides)
(2020)
Đĩa đơn từ Glory
  1. "Make Me"
    Phát hành: 15 tháng 7, 2016
  2. "Slumber Party"
    Phát hành: 16 tháng 11, 2016

Glory là album phòng thu thứ chín của ca sĩ người Mỹ Britney Spears, phát hành ngày 26 tháng 8 năm 2016 bởi RCA Records. Sau khi gia hạn hợp đồng với RCA, Spears bắt đầu thực hiện album vào năm 2014 với mong muốn tạo nên một đĩa nhạc đột phá hơn album phòng thu trước Britney Jean (2013). Trong khoảng thời gian này, nữ ca sĩ hợp tác với Iggy Azalea để phát hành "Pretty Girls" và gặt hái những thành công tương đối, nhưng đĩa đơn sau đó không được đưa vào Glory. Do không bị thúc ép về thời gian phát hành, nữ ca sĩ tiếp tục hoàn thiện album trong năm 2015 và 2016, tạo điều kiện để cô cho ra mắt một trong những dự án yêu thích nhất trong sự nghiệp. Đây là một bản thu âm pop, R&Bdance-pop kết hợp với âm hưởng của EDMhip hop, trong đó Spears lần đầu hợp tác với nhiều sản xuất như BloodPop, Cashmere Cat, DJ MustardIan Kirkpatrick.

Glory nhận được những phản ứng tích cực từ các nhà phê bình âm nhạc, trong đó họ đánh giá cao khâu sản xuất, chất giọng của Spears và gọi đây là một trong những bản thu âm xuất sắc nhất của cô sau nhiều năm. Ngoài ra, đĩa nhạc cũng lọt vào danh sách những album xuất sắc nhất năm của một số tổ chức và ấn phẩm âm nhạc. Glory cũng gặt hái nhiều thành công về mặt thương mại, đứng đầu các bảng xếp hạng tại Cộng hòa Séc, Ireland, Ý và lọt vào top 5 ở 20 quốc gia khác, bao gồm những thị trường lớn như Úc, Canada, Đức, Tây Ban Nha, Thụy Sĩ và Vương quốc Anh. Tại Hoa Kỳ, album ra mắt ở vị trí thứ ba trên bảng xếp hạng Billboard 200 với 111,000 đơn vị album tương đương, thành tích cải thiện về doanh số so với Britney Jean và trở thành album thứ chín liên tiếp của cô vươn đến top 5 tại đây.

"Make Me" (hợp tác với G-Eazy) được phát hành làm đĩa đơn mở đường cho Glory, và đạt vị trí thứ 17 trên bảng xếp hạng Billboard Hot 100, trong khi Spears kết hợp với Tinashe cho phiên bản mới của đĩa đơn thứ hai "Slumber Party" và đạt vị trí thứ 86 tại Hoa Kỳ. Ngoài ra, ba đĩa đơn quảng bá cũng được phát hành trước khi ra mắt album—"Private Show", "Clumsy" và "Do You Wanna Come Over?".[1][2][3][4] Đế quảng bá album, Spears xuất hiện và trình diễn trên nhiều chương trình truyền hình và lễ trao giải, bao gồm The Jonathan Ross Show, Today, Lễ hội âm nhạc iHeartRadio năm 2016, Lễ hội âm nhạc Apple năm 2016 và giải Video âm nhạc của MTV năm 2016.[5] Glory được tái bản hai lần vào năm 2020 với một số bản nhạc mới,[6][7] trong đó "Mood Ring (By Demand)", "Swimming in the Stars" và "Matches" lần lượt được phát hành dưới dạng đĩa đơn.

Bối cảnh thực hiện

[sửa | sửa mã nguồn]

Vào tháng 8 năm 2014, Spears xác nhận rằng cô đã gia hạn hợp đồng với RCA, và hiện tại cô đang sáng tác và thu âm những bài hát mới. Quá trình ghi âm album kéo dài hai năm rưỡi và "30 đến 40" bài hát đã được ghi âm cho nó.[8] Sau khi bắt tay thực hiện album được 6 tháng, Spears cảm thấy không hài lòng với thành quả đạt được. Karen Kwak sau đó đã được chọn làm điều hành sản xuất sau khi phát hành "Pretty Girls" và giúp Spears tìm thấy "những người thú vị nhất để viết bài hát cùng".[9] Kwak muốn mang lại những âm thanh tương tự như hai album phòng thu trước của nữ ca sĩ là BlackoutIn the Zone cho Glory, và chọn ra các nhà sản xuất dựa trên tiêu chí này. Kwak nói về album: "Britney theo đuổi những bài hát cô ấy muốn làm cho bản thân mình. Cô bắt đầu đưa ra những ý tưởng và giai điệu. Nó là đứa con của cô ấy".[10] Trong một cuộc phỏng vấn với Billboard vào tháng 3 năm 2015, Spears nói rằng cô ấy đang thực hiện album mới "chậm mà chắc".

Vào tháng 4 năm 2015, Matthew Koma xác nhận rằng anh đang thực hiện trên một số chất liệu cho bản thu âm, nhưng không có bài hát nào trong số đó được chọn vào danh sách cuối cùng. Trong tháng 6 năm 2015, những hình ảnh Spears đang làm việc với Sam Bruno được tiết lộ, tuy nhiên, những thành quả từ quá trình cộng tác đã không được đưa vào album. Vào tháng 7 năm 2015, hình ảnh Spears đang làm việc với nhạc sĩ Chantal KreviazukSimon Wilcox cùng nhà sản xuất Ian Kirkpatrick được tiết lộ; trong cùng tháng đó, DJ Mustard thông báo rằng anh cũng tham gia đóng góp cho album, sau đó được tiết lộ là "Mood Ring" được thu âm vào tháng đó. Alex Da Kid cũng được cho là đang làm việc với Spears vào tháng 7 năm 2015, tuy nhiên, những đóng góp này cũng không được chọn. Vào tháng 10 năm 2015, những hình ảnh Spears làm việc trong phòng thu với Burns và Mischke được đăng tải.[11] Cuối tháng đó, Spears tiết lộ tiêu đề cho "Just Luv Me".[12] Trong tháng 11 năm 2015, Spears được bắt gặp đang làm việc trong phòng thu với Justin TranterJulia Michaels.[13]

Vào tháng 3 năm 2016, Spears nói rằng đây là "điều tốt nhất mà tôi đã thực hiện trong một thời gian dài", mặc dù cô cũng cho biết rằng cô không biết khi nào album sẽ được hoàn thành và nữ ca sĩ "không vội vã gì [...] vì người hâm mộ của tôi sẽ thực sự đánh giá cao nó".[14] Bài hát cuối cùng được thu âm cho album là "Love Me Down".[15]

Vào ngày 3 tháng 8 năm 2016, Spears tiết lộ tựa đề và bìa album mới của mình, xác nhận ngày phát hành, và gọi đây là "sự bắt đầu của một kỷ nguyên mới". Ngoài ra, bài hát mới của cô "Private Show", mà trước đó đã được tiết lộ một phần giai điệu trong quảng cáo dòng nước hoa cùng tên của Spears,[16] sẽ ngay lập tức xuất hiện khi đặt hàng trước album trên Apple Music.[17][18] Trên chương trình Most Requested Live với Romeo, Spears tiết lộ rằng con trai cô chính là người đã chọn tiêu đề của album.[19]

Sáng tác

[sửa | sửa mã nguồn]

Kể từ những ngày đầu của quá trình ghi âm Glory, Spears khẳng định rằng cô muốn làm điều gì đó khác với những dự án trước đây của mình và mong muốn tạo nên một bước đột phá mới. Trong buổi hỏi đáp với người hâm mộ trên trang Tumblr cá nhân của mình vào tháng 7 năm 2016, khi được hỏi về phong cách của album, Spears đã trả lời rằng "Tôi sẽ chỉ nói điều này... Chúng tôi đã thực sự khám phá ra được nhiều điều mới mẻ [cho album]".[20][21] Vào ngày 5 tháng 8, cô tiết lộ trong buổi phỏng vấn trực tiếp qua điện thoại trên chương trình On Air with Ryan Seacrest rằng album "mất rất nhiều thời gian, nhưng tôi nghĩ rằng chúng tôi đã đạt đến một mức độ mà tôi đã thực sự, thực sự rất hạnh phúc với những gì tôi đã có, nó thực sự rất mới mẻ và khác biệt [...] có khoảng hai hoặc ba bài hát trong album đi theo hướng đô thị hơn mà tôi đã muốn làm từ lâu, nhưng tôi lại không thực sự làm được điều đó".[22]

Đĩa đơn

[sửa | sửa mã nguồn]
Rapper G-Eazy (trong hình) là nghệ sĩ góp giọng trong "Make Me...".

Ngày 15 tháng 7 năm 2016, Spears phát hành đĩa đơn đầu tiên cho album, "Make Me...", trên iTunes Store. Đây là một bản mid-tempo R&B với sự tham gia góp giọng của rapper người Mỹ G-Eazy.[20] Nó ra mắt và đạt vị trí thứ 17 trên bảng xếp hạng Billboard Hot 100, trở thành đĩa đơn có thứ hạng ra mắt cao thứ 6 trong sự nghiệp của cô trên bảng xếp hạng và hit thứ 34 lọt vào Hot 100.[23] Video ca nhạc của "Make Me..." được ra mắt trên Vevo của Spears vào ngày 5 tháng 8 năm 2016.

Một phiên bản phối lại của "Slumber Party" với sự tham gia góp giọng của Tinashe đã được phát hành vào ngày 18 tháng 11 năm 2016 như là đĩa đơn thứ hai trích từ album.[24] Một video ca nhạc của bài hát cũng được ra mắt cùng ngày. Nó đạt vị trí thứ 86 trên bảng xếp hạng Billboard Hot 100, trở thành bài hát thứ 35 của Spears lọt vào Hot 100.

Đĩa đơn quảng bá

[sửa | sửa mã nguồn]

"Private Show" đã được phát hành như là đĩa đơn quảng bá đầu tiên cùng với việc đặt trước album vào ngày 4 tháng 8 năm 2016. Nó cũng được lấy làm tên thương hiệu cho dòng nước hoa mới nhất của Spears. Bài hát được viết bởi Britney Spears, Carla Williams, Tramaine Winfrey và Simon Smith.[20][25] "Clumsy" được phát hành như là đĩa đơn quảng bá thứ hai vào ngày 11 tháng 8.[26] Đĩa đơn quảng bá thứ ba, "Do You Wanna Come Over?" được phát hành vào ngày 18 tháng 8.[27]

Quảng bá

[sửa | sửa mã nguồn]
Spears trình diễn tại Lễ hội Âm nhạc Apple tại London.

Ngày 26 tháng 7, Spears trả lời những câu hỏi của khán giả trên trang Tumblr cá nhân.[28] Vào ngày 3 tháng 8 năm 2016, Spears xuất hiện trên Jimmy Kimmel Live!, để chơi khăm chủ trì chương trình Jimmy Kimmel bằng việc nhảy ngẫu hứng "Make Me...", cùng với các vũ công nam, trên giường ngủ của Kimmel vào ban đêm.[29] Ngày 5 tháng 8, Spears tham gia phỏng vấn trên chương trình phát thanh On Air With Ryan Seacrest, nơi cô bàn luận về quá trình thực hiện album.[30] Vào ngày 18 tháng 8 năm 2016, Spears thông báo rằng cô sẽ biểu diễn "Make Me..." tại Giải Video âm nhạc của MTV năm 2016.[31] Màn trình diễn được công bố sau khi hai buổi diễn của Britney: Piece of Me bị huỷ bỏ, mà ban đầu được dự kiến diễn ra hai ngày trước lễ trao giải.[32] Nó đánh dấu sự tái xuất trên sân khấu lễ trao giải này của cô sau gần 10 năm, kể từ màn trình diễn năm 2007 với "Gimme More". Ngày 24 tháng 8, Spears trả lời phỏng vấn trên Scott Mills của BBC.[33]. Vào ngày 25 tháng 8, Spears xuất hiện trong chuyên mục "Carpool Karaoke" trên The Late Late Show with James Corden.[34] Hai ngày sau đó, Spears giải đáp những câu hỏi của khán giả trong chương trình Most Requested Live.[35][36].[35] Ngày 1 tháng 9, Spears xuất hiện lần đầu tiên sau 15 năm trên Today Show để trả lời phỏng vấn và trình diễn "Make Me..." và "Do You Wanna Come Over?".[35][36] Ngày 8 tháng 9, Spears xuất hiện trên The Ellen DeGeneres Show.[37] Ngày 24 tháng 9 năm 2016, Spears trình diễn mở màn trong ngày thứ hai của Lễ hội âm nhạc iHeartRadio 2016, được tổ chức tại T-Mobile AreaLas Vegas.[38] Ngày 27 tháng 9, Spears sẽ trình diễn tại Lễ hội âm nhạc Apple.[39] Ngày 1 tháng 10, Spears được lên kế hoạch xuất hiện và trình diễn trên The Jonathan Ross Show, đánh dấu hoạt động đầu tiên của cô trên truyền hình Anh quốc kể từ năm 2008.[40] Ngày 2 tháng 12, Spears biểu diễn tại KIIS-FM Jingle Ball. Nữ ca sĩ nhận được một chiếc bánh sinh nhật và trình diễn "Slumber Party" với Tinashe.[41][42] Một ngày sau, cô biểu diễn tại Triple Ho Show.[43]

Đánh giá chuyên môn

[sửa | sửa mã nguồn]
Đánh giá chuyên môn
Điểm trung bình
NguồnĐánh giá
Metacritic71/100[44]
Nguồn đánh giá
NguồnĐánh giá
AllMusic[45]
Boston Globe(tích cực)[46]
The Daily Telegraph[47]
Entertainment WeeklyB[48]
Los Angeles Times(tích cực)[49]
NME3/5[50]
New York Times(trái chiều)[51]
Rolling Stone[52]
Slant Magazine[53]
ViceA–[54]

Glory nhận được nhiều đánh giá tích cực từ các nhà phê bình âm nhạc. Sal Cinquemani của Stant Magazine đánh giá 3.5 sao trên 5 sao cho album, gọi giai điệu của album là "táo bạo và trưởng thành", nhưng lại chỉ trích "Private Show", gọi nó là "quả bom xịt duy nhất của album".[53] Maura Johnston của The Boston Globe miêu tả album giống như "một nguồn năng lượng không kiềm chế" và "hoạt động theo cách riêng của nó".[46] Neil McCormick từ The Daily Telegraph ca ngợi khâu sản xuất của album, và lưu ý rằng "mỗi bài hát đều nghe có vẻ như một đĩa đơn".[47] Trong một động thái mang tính chất trái chiều, Jon Parales từ The New York Times cho rằng Glory "khá nhàm chán, đơn điệu", nhưng tán dương chất giọng dứt khoát của cô.[51] Mesfin Fekadu từ Associated Press ghi nhận Spears "đã đánh dấu bước ngoặt nhảy vào thời cuộc [thị trường nhạc R&B]", nhưng tuyên bố rằng những bài hát nghe như không phải là "Britney đích thực".[55] Ngược lại, Nolan Feeney từ Entertainment Weekly chỉ ra rằng những bài hát trong album như nghe "giống như cái nhìn thoáng qua của Britney - thị hiếu âm nhạc và giọng hát của cô - không thực sự hoàn hảo về mọi mặt".[48]

Đặc biệt hơn, chất giọng của Spears được giới chuyên môn khá đề cao. Los Angeles Times mô tả giọng hát của nữ ca sĩ là một "cải tiến lớn" so với Britney Jean, trong đó lưu ý rằng "cách hát được thể hiện rất tự nhiên [...] làm cho Glory tốt đến vậy". The Boston Globe cảm thấy Spears đã "đắm chìm hoàn toàn vào màn trình diễn thanh nhạc của mình" trong album, cũng như nhận xét rằng: "Glory là một album nhạc pop theo cách riêng của nó, một phần là nhờ sức nóng của chính bản thân ca sĩ thể hiện, sau nhiều năm, Spears vẫn cai trị đế chế nhạc pop của mình".[56] The New York Times nhận thấy rằng nó nghe như Spears đã "tham gia nhiều hơn, thực tại hơn, nhiều hơn những gì cô ấy có trong gần một thập kỷ qua".[46][51] Rolling Stone so sánh một cách tích cực giọng hát của Spears với những gì cô thể hiện trong In the Zone, cho rằng "cô đã không khuấy động giọng hát của mình một cách khéo léo kể từ những ngày tháng của "Toxic"".[52] Entertainment Weekly mô tả album sở hữu "giọng hát tràn đầy năng lượng nhất của cô" trong hơn một thập kỷ qua và nhận thấy rằng chất giọng của Spears nghe như "thực tại hơn và nhiệt tình hơn sau nhiều năm".[48] Với suy nghĩ tương tự, Idolator mô tả Spears nghe như "rõ ràng hơn, tham gia nhiều hơn và nổi bật hơn sau nhiều năm".[57] Slant Magazine ghi nhận Spears với một "sự sẵn sàng để căng tràn giọng hát và khám phá những địa hình âm thanh mới", nhưng cũng nhận xét rằng điều này lại "làm nổi bật những thiếu sót" của cô.[53]

Danh sách cuối năm

[sửa | sửa mã nguồn]

Glory đã được liệt kê trong danh sách những album xuất sắc của năm bởi nhiều tổ chức âm nhạc.

Đơn vị Thành tựu Năm Xếp hạng Nguồn
Slant Magazine 25 Album xuất sắc nhất của năm 2016 2016
10
Digital Spy 20 Album xuất sắc nhất của năm 2016
11
Fuse Album xuất sắc nhất của năm 2016
12
AOL Album xuất sắc nhất của năm 2016
5
Rolling Stone 20 Album Pop xuất sắc nhất của năm 2016
5

Diễn biến thương mại

[sửa | sửa mã nguồn]

Glory ra mắt ở vị trí thứ 3 trên bảng xếp hạng Billboard 200, với 111.000 đơn vị album được tiêu thụ trong tuần đầu phát hành, bao gồm 88.000 bản xuất phát từ doanh thu thuần.[63] Tại Vương quốc Anh và Ireland, nó lần lượt ra mắt ở vị trí thứ 2 và thứ nhất, trở thành album có thứ hạng cao nhất của Spears tại những quốc gia này kể từ Blackout (2007).[64] Tại Đức, album đạt vị trí thứ 3 trong tuần đầu phát hành, trở thành album xếp hạng cao nhất của cô trong 13 năm qua, kể từ In the Zone (2003). Tại Ý, album đứng vị trí số một, trở thành album đầu tiên của cô làm được điều này.

Danh sách bài hát

[sửa | sửa mã nguồn]
Glory – Bản tiêu chuẩn
STTNhan đềSáng tácSản xuấtThời lượng
1."Invitation"3:19
2."Do You Wanna Come Over?"
Mattman & Robin[b]3:22
3."Make Me" (hợp tác với G-Eazy)
  • Burns
  • Mischke[a]
3:50
4."Private Show"
  • Winfrey
  • Mischke[a]
3:55
5."Man on the Moon"3:46
6."Just Luv Me"4:01
7."Clumsy"
  • Felder
  • Alex Nice
  • Mischke[a]
3:02
8."Slumber Party"
  • Larsson
  • Fredriksson
  • Michaels
  • Tranter
3:34
9."Just Like Me"
  • Spears
  • Michaels
  • Tranter
  • Monson
  • Monson
  • Mischke[a]
2:44
10."Love Me Down"
  • Goldstein
  • Mischke[a]
3:18
11."Hard to Forget Ya"
3:29
12."What You Need"
  • Spears
  • Williams
  • Winfrey
  • Smith
  • Winfrey
  • Mischke[a]
3:07
Tổng thời lượng:41:27
Glory – Bản cao cấp (bản nhạc kèm theo)[65][66]
STTNhan đềSáng tácSản xuấtThời lượng
13."Better"
3:09
14."Change Your Mind (No Seas Cortes)"
  • Larsson
  • Fredriksson
  • Michaels
  • Tranter
2:59
15."Liar"
Evigan[b]3:16
16."If I'm Dancing"
3:24
17."Coupure Électrique"
  • Spears
  • Lance Eric Shipp
  • Nathalia Marshall
  • Rachael Kennedy
  • Shipp
  • Mischke[a]
2:20
Tổng thời lượng:56:35
Glory – Bản tại Nhật Bản (bản nhạc kèm theo)[66][67]
STTNhan đềSáng tácSản xuấtThời lượng
18."Mood Ring"
  • McFarlane
  • Audino
  • Warbrick
  • Hughes
  • Asher
  • Fontana
  • DJ Mustard
  • Twice as Nice[d]
  • Asher[a]
3:49
Tổng thời lượng:60:24
Glory – Bản Lưu diễn tại Nhật Bản (đĩa kèm theo)[67]
STTNhan đềThời lượng
1."Work Bitch"4:08
2."Womanizer"3:43
3."Piece of Me"3:31
4."Me Against the Music" (Dragon Man Mix)3:44
5."Gimme More"4:11
6."Everytime"3:50
7."...Baby One More Time"3:31
8."Oops!... I Did It Again"3:31
9."Boys"3:28
10."Get Naked (I Got a Plan)"4:45
11."I'm a Slave 4 U"3:24
12."Freakshow"2:55
13."Do Somethin'"3:22
14."Circus"3:11
15."If U Seek Amy"3:36
16."Breathe on Me"3:44
17."Touch of My Hand"4:20
18."Toxic"3:19
19."Stronger"3:24
20."(You Drive Me) Crazy"3:19
21."Till the World Ends"3:58
Tổng thời lượng:76:54

Ghi chú

  • Trong phiên bản nhạc số của album, "Do You Wanna Come Over?" là bài hát thứ bảy sau "Clumsy" và trước "Slumber Party", trong khi những bài hát còn lại vẫn giữ nguyên thứ tự ban đầu.[68]
  • Album được phát hành lại vào ngày 16 tháng 11 năm 2016 trên nền tảng nhạc số và phát trực tuyến, bao gồm phiên bản mới của "Slumber Party" với sự góp giọng của Tinashe, có cùng độ dài với bản gốc.[69] Phiên bản hát đơn được trở lại trong bản cao cấp tái bản năm 2020.
  • Phiên bản năm 2016 của album (không bao gồm bản tại Nhật Bản) và bản tiêu chuẩn tái bản năm 2020 không còn xuất hiện trên nền tảng nhạc số kể từ tháng 9 năm 2022. Phiên bản độc quyền tại Nhật Bản và phiên bản cao cấp tái bản năm 2020 hiện vẫn xuất hiện.
  • ^[a] – nghĩa là sản xuất giọng hát
  • ^[b] – nghĩa là sản xuất chính và giọng hát
  • ^[c] – nghĩa là hỗ trợ sản xuất giọng hát
  • ^[d] – nghĩa là đồng sản xuất

Xếp hạng

[sửa | sửa mã nguồn]

Chứng nhận

[sửa | sửa mã nguồn]
Quốc gia Chứng nhận Số đơn vị/doanh số chứng nhận
Canada (Music Canada)[110] Vàng 40.000double-dagger

double-dagger Chứng nhận dựa theo doanh số tiêu thụ+phát trực tuyến.

Lịch sử phát hành

[sửa | sửa mã nguồn]
Khu vực Ngày Phiên bản Định dạng Hãng đĩa Ct.
Nhiều 26 tháng 8, 2016
  • Tiêu chuẩn
  • cao cấp
RCA [111]
Hàn Quốc 30 tháng 8, 2016 CD Sony Music [112]
Nhật Bản 14 tháng 9, 2016 Tiêu chuẩn [113]
Nhiều 16 tháng 11, 2016 Tái bản
  • Tải nhạc số
  • phát trực tuyến
RCA [69]
Nhật Bản 31 tháng 5, 2017 Lưu diễn Album kép Sony Music [114]
Trung Quốc 18 tháng 6, 2017 [115]
Nhiều 29 tháng 5, 2020 Tiêu chuẩn 2020
  • Tải nhạc số
  • phát trực tuyến
RCA [116]
4 tháng 12, 2020 Cao cấp 2020 LP [7]
11 tháng 12, 2020
  • Tải nhạc số
  • phát trực tuyến
[117][118]

Tham khảo

[sửa | sửa mã nguồn]
  1. ^ Corner, Lewis (21 tháng 6 năm 2016). “Britney Spears teases 'really cool' new song 'Private Show'. Digital Spy. Lưu trữ bản gốc 7 Tháng tám năm 2016. Truy cập 3 Tháng tám năm 2016.
  2. ^ Spears, Britney (3 tháng 8 năm 2016). “Britney Spears on Instagram”. Instagram. Lưu trữ bản gốc 27 tháng Chín năm 2016. Truy cập 3 Tháng tám năm 2016.
  3. ^ Goodman, Jessica (3 tháng 8 năm 2016). “Britney Spears announces new album Glory”. Entertainment Weekly. Lưu trữ bản gốc 3 Tháng tám năm 2016. Truy cập 3 Tháng tám năm 2016.
  4. ^ Monroe, Jazz (3 tháng 8 năm 2016). “Britney Spears Announces New Album Glory”. Pitchfork Media. Lưu trữ bản gốc 4 Tháng tám năm 2016. Truy cập 3 Tháng tám năm 2016.
  5. ^ “Britney Spears & G-Eazy Perform 'Make Me' and 'Me, Myself and I' at the 2016 VMAs”. Billboard (bằng tiếng Anh). Lưu trữ bản gốc 9 Tháng hai năm 2021. Truy cập 4 Tháng hai năm 2021.
  6. ^ “Glory – Britney Spears – Apple Music”. Lưu trữ bản gốc 6 Tháng sáu năm 2020. Truy cập 28 tháng Năm năm 2020.
  7. ^ a b Aniftos, Rania (11 tháng 12 năm 2020). “Britney Spears Teams Up With Backstreet Boys for 'Matches'. Billboard. Lưu trữ bản gốc 24 tháng Chín năm 2022. Truy cập 22 Tháng hai năm 2023.
  8. ^ Stern, Bradley (ngày 29 tháng 8 năm 2016). “Britney Spears Talks VMAs Performance, Unreleased 'Glory' and 'Carpool Karaoke' on 'Elvis Duran'. Popcrush. Truy cập ngày 14 tháng 9 năm 2016.
  9. ^ Gold, Allie. “Britney Spears Interview: Talks 'Glory', Reveals Her New Crush And Shares How She Really Feels About Brad Pitt”. KTU. Bản gốc lưu trữ 31 Tháng 8 2016. Truy cập ngày 14 tháng 9 năm 2016. Kiểm tra giá trị ngày tháng trong: |archive-date= (trợ giúp)
  10. ^ Phull, Hardeep (ngày 25 tháng 8 năm 2016). “Will Britney Spears redeem herself at tonight's VMA's?”. New York Post. Truy cập ngày 14 tháng 9 năm 2016.
  11. ^ Mills, Callie (9 tháng 10 năm 2015). “Britney Spears Teases She's 'Making Magic' in the Studio”. Celebuzz. Lưu trữ bản gốc 18 tháng Chín năm 2016. Truy cập 14 tháng Chín năm 2016.
  12. ^ Kritselis, Alex (ngày 15 tháng 2 năm 2016). “When Is Britney Spears Releasing New Music? She Just Gave Us A Major Hint”. Bustle. Truy cập ngày 14 tháng 9 năm 2016.
  13. ^ Stern, Bradley (ngày 4 tháng 11 năm 2015). “Britney Spears Is In The Studio With Justin Tranter and Julia Michaels: Meet Her Newest 'B9′ Collaborators”. Popcrush. Truy cập ngày 14 tháng 9 năm 2016.
  14. ^ Testino, Mario (ngày 1 tháng 3 năm 2016). “V100: Living For Britney”. V Magazine. Bản gốc lưu trữ 10 tháng Năm năm 2016. Truy cập ngày 3 tháng 8 năm 2016.
  15. ^ Ettachfini, Leila (ngày 26 tháng 8 năm 2016). “A Britney Superfan Talks About Writing a Song for Her New Album, 'Glory'. Broadly. Truy cập ngày 14 tháng 9 năm 2016.
  16. ^ Corner, Lewis (ngày 21 tháng 6 năm 2016). “Britney Spears teases "really cool" new song 'Private Show'. Digital Spy. Truy cập ngày 3 tháng 8 năm 2016.
  17. ^ “Britney Spears on Instagram”. Twitter. ngày 3 tháng 8 năm 2016. Truy cập ngày 3 tháng 8 năm 2016.
  18. ^ Goodman, Jessica (ngày 3 tháng 8 năm 2016). “Britney Spears announces new album Glory”. Entertainment Weekly. Truy cập ngày 3 tháng 8 năm 2016.
  19. ^ “Bản sao đã lưu trữ”. Bản gốc lưu trữ ngày 31 tháng 8 năm 2016. Truy cập ngày 29 tháng 8 năm 2016.
  20. ^ a b c Reed, Ryan (ngày 15 tháng 7 năm 2016). “Hear Britney Spears' Slinky New Song With G-Eazy, 'Make Me'. Rolling Stone. Bản gốc lưu trữ 16 tháng Bảy năm 2016. Truy cập ngày 17 tháng 7 năm 2016.
  21. ^ Willis, Jackie (ngày 29 tháng 7 năm 2016). “Britney Spears Tumblr Q&A”. Tumblr.
  22. ^ “INTERVIEW: Britney Spears Says 'Glory' Album Is 'Different,' Will Have Some Hip-Hop - On Air with Ryan Seacrest”. Bản gốc lưu trữ Tháng 8 8, 2016. Truy cập ngày 15 tháng 8 năm 2016. Kiểm tra giá trị ngày tháng trong: |archive-date= (trợ giúp)
  23. ^ http://www.billboard.com/articles/columns/chart-beat/7446774/katy-perry-rise-britney-spears-make-me-debut-hot-100
  24. ^ Corner, Lewis (ngày 26 tháng 10 năm 2016). “Britney has a very exciting collab for her next single”. Digital Spy. United Kingdom: Hearst Corporation. Truy cập ngày 26 tháng 10 năm 2016.
  25. ^ Willis, Jackie (ngày 17 tháng 6 năm 2016). “Britney Spears Unveils Her 20th Perfume 'Private Show,' Scent Inspired in Part by Singer's Love of Iced Coffee”. Entertainment Tonight. Truy cập ngày 4 tháng 8 năm 2016.
  26. ^ Nolfi, Joey (ngày 11 tháng 8 năm 2016). “Britney Spears drops intense electro banger 'Clumsy'. Entertainment Weekly.
  27. ^ Kickham, Dylan (ngày 15 tháng 8 năm 2016). “Britney Spears to release new song 'Do You Wanna Come Over' '. Entertainment Weekly. Bản gốc lưu trữ 17 Tháng tám năm 2016. Truy cập 17 Tháng tám năm 2016. line feed character trong |title= tại ký tự số 60 (trợ giúp)
  28. ^ Grossman, Lena (ngày 26 tháng 7 năm 2016). “Britney Spears Just Let Us Into Her World”. Time. Bản gốc lưu trữ ngày 21 tháng 8 năm 2016. Truy cập ngày 19 tháng 8 năm 2016.
  29. ^ Delbyk, Cole (ngày 4 tháng 8 năm 2016). “Britney Spears Pranks A Sleeping Jimmy Kimmel With A Bedside Performance Of 'Make Me'. Huffington Post. Truy cập ngày 19 tháng 8 năm 2016.
  30. ^ Inocencio, Marc (ngày 5 tháng 8 năm 2016). “INTERVIEW: Britney Spears Says 'Glory' Album Is 'Different,' Will Have Some Hip-Hop”. iHeartMedia. Bản gốc lưu trữ 8 Tháng 8 2016. Truy cập ngày 19 tháng 8 năm 2016. Kiểm tra giá trị ngày tháng trong: |archive-date= (trợ giúp)
  31. ^ Fisher, Kendall (ngày 16 tháng 8 năm 2016). “Britney Spears Will Perform at the 2016 MTV Video Music Awards for the First Time in 10 Years”. E! News. Truy cập ngày 16 tháng 8 năm 2016.
  32. ^ Ryan, Morgan (ngày 4 tháng 8 năm 2016). “Britney Spears Announces New Album: Pranks Jimmy Kimmel While He's Sleeping”. Blackburn Radio Inc. Truy cập ngày 16 tháng 8 năm 2016.
  33. ^ O'Donnell, Carey (ngày 24 tháng 8 năm 2016). “QUEEN BRITNEY SPEARS GETS CANDID IN NEW BBC INTERVIEW”. pappermag.com. Truy cập ngày 27 tháng 8 năm 2016.
  34. ^ “Britney Spears rides with James Corden for Carpool Karaoke”. CBS8. ngày 15 tháng 8 năm 2016. Truy cập ngày 19 tháng 8 năm 2016.
  35. ^ a b c “Most Requested Live Presents Ask Anything with Britney Spears”. Ask Anything. Bản gốc lưu trữ ngày 25 tháng 8 năm 2016. Truy cập ngày 19 tháng 8 năm 2016.
  36. ^ a b “COMING UP ON 'TODAY' AUGUST 29 – SEPTEMBER 9”. nbcumv.com. Bản gốc lưu trữ 4 tháng Chín năm 2016. Truy cập ngày 27 tháng 8 năm 2016.
  37. ^ “Britney and Ellen crash a shopping mall”. new.co.au. ngày 8 tháng 9 năm 2016. Truy cập ngày 21 tháng 9 năm 2016.
  38. ^ Peters, Mitchell (ngày 25 tháng 7 năm 2016). “U2, Drake, Britney Spears & More to Headline 2016 iHeartRadio Music Festival in Las Vegas”. Billboard. Truy cập ngày 16 tháng 8 năm 2016.
  39. ^ “Apple Music Festival to light up London with 10 nights of spectacular performances this September”. apple.com. ngày 25 tháng 8 năm 2016. Truy cập ngày 27 tháng 8 năm 2016.
  40. ^ “BRITNEY SPEARS, ALEXANDER SKARSGÅRD, EMILY BLUNT & LUKE EVANS FOR THE JONATHAN ROSS SHOW ON SATURDAY 1 OCTOBER 2016”. thisisthelatest.com. ngày 21 tháng 9 năm 2016. Truy cập ngày 21 tháng 9 năm 2016.
  41. ^ Redfearn, Dominique (ngày 10 tháng 10 năm 2016). “Ariana Grande, Justin Bieber, Bruno Mars & Britney Spears to Perform on Jingle Ball Tour”. Billboard. Truy cập ngày 3 tháng 12 năm 2016.
  42. ^ Hautman, Nicholas (ngày 3 tháng 12 năm 2016). “Britney Spears Celebrates Her 35th Birthday With Ryan Seacrest and Tinashe at KIIS FM Jingle Ball 2016”. US magazine. Truy cập ngày 3 tháng 12 năm 2016.
  43. ^ Harrington, Jim (ngày 4 tháng 12 năm 2016). “Backstreet Boys soar, Justin Bieber flops at Triple Ho Show”. Mercury News. Truy cập ngày 7 tháng 12 năm 2016.
  44. ^ “Glory Reviews”. Metacritic. Truy cập ngày 29 tháng 8 năm 2016.
  45. ^ Stephen Thomas Erlewine. “Glory - Britney Spears - Songs, Reviews, Credits, Awards”. AllMusic. Truy cập ngày 27 tháng 8 năm 2016.
  46. ^ a b c Johnston, Maura (ngày 25 tháng 8 năm 2016). “Britney Spears sounds like she's having fun again”. The Boston Globe. Truy cập ngày 25 tháng 8 năm 2016.
  47. ^ a b Neil McCormick (ngày 26 tháng 8 năm 2016). “Glory might just be Britney Spears's masterpiece – review”. Telegraph Media Group. Truy cập ngày 26 tháng 8 năm 2016.
  48. ^ a b c Feeney, Nolan (ngày 26 tháng 8 năm 2016). “Britney Spears' Glory: EW Review”. Entertainment Weekly. Truy cập ngày 27 tháng 8 năm 2016.
  49. ^ Mikael Wood (ngày 26 tháng 8 năm 2016). “Review: Britney Spears is back in control on her sexy new album 'Glory'. Los Angeles Times. Truy cập ngày 27 tháng 8 năm 2016.
  50. ^ http://www.nme.com/reviews/britney-spears/16558
  51. ^ a b c Pareles, Jon (ngày 24 tháng 8 năm 2016). “In 'Glory,' Britney Spears Promises Pleasure, but Offers Nothing Personal”. The New York Times. Truy cập ngày 25 tháng 8 năm 2016.
  52. ^ a b Sheffield, Rob (ngày 27 tháng 8 năm 2016). “Review: Britney Spears' 'Glory' Is Another Fantastic Comeback”. Rolling Stone. Bản gốc lưu trữ 26 Tháng tám năm 2016. Truy cập ngày 26 tháng 8 năm 2016.
  53. ^ a b c Cinquemani, Sal (ngày 22 tháng 8 năm 2016). “Britney Spears: Glory”. Slant Magazine. Truy cập ngày 22 tháng 8 năm 2016.
  54. ^ Christgau, Robert (ngày 2 tháng 9 năm 2016). “It's Britney, Bitch Expert Witness with Robert Christgau”. Vice. Truy cập ngày 4 tháng 9 năm 2016.
  55. ^ Fekadu, Mesfin (ngày 26 tháng 8 năm 2016). “Review: Britney Spears isn't winning, even if we want her to”. Associated Press. Bản gốc lưu trữ 27 Tháng tám năm 2016. Truy cập ngày 27 tháng 8 năm 2016.
  56. ^ “Britney Spears sounds like she's having fun again, GLOBE CORRESPONDENT AUGUST 25, 2016”.
  57. ^ Jonathan Riggs (ngày 26 tháng 8 năm 2016). “Britney Spears' 'Glory': Album Review”. Idolator. Bản gốc lưu trữ 8 Tháng sáu năm 2021. Truy cập ngày 26 tháng 8 năm 2016.
  58. ^ “Slant Magazine Best 25 Albums Of 2016”. Accolades Slant Magazine. ngày 8 tháng 12 năm 2016. Truy cập ngày 8 tháng 12 năm 2016.
  59. ^ “Digital Spy 20 Best Albums Of 2016”. Digital Spy. ngày 8 tháng 12 năm 2016. Truy cập ngày 8 tháng 12 năm 2016.
  60. ^ “Fuse best 20 albums of 2016”. Fuse. ngày 6 tháng 12 năm 2016. Truy cập ngày 6 tháng 12 năm 2016.
  61. ^ “AOL best albums of 2016”. AOL. ngày 13 tháng 12 năm 2016. Truy cập ngày 13 tháng 12 năm 2016.
  62. ^ “Rolling Stone 20 best pop albums of 2016”. Rolling Stone. ngày 19 tháng 12 năm 2016. Truy cập ngày 19 tháng 12 năm 2016.
  63. ^ “Florida Georgia Line, Britney Spears & Young Thug Debut in Top 10 on Billboard 200 Chart”. Billboard. Truy cập ngày 5 tháng 9 năm 2016.
  64. ^ http://www.billboard.com/articles/columns/chart-beat/7494775/barbra-streisand-encore-britney-spears-glory-uk
  65. ^ “Britney Spears – Glory (Deluxe Version)”. United States: iTunes Store. 26 tháng 8 năm 2016. Lưu trữ bản gốc 2 Tháng mười hai năm 2016. Truy cập 4 Tháng mười hai năm 2016.
  66. ^ a b “Britney Spears – Glory (Japan Edition)” (bằng tiếng Nhật). Japan: Sony Music Japan. 14 tháng 9 năm 2016. Lưu trữ bản gốc 27 Tháng tám năm 2016. Truy cập 29 Tháng tám năm 2016.
  67. ^ a b “Britney Spears – Glory Japan Tour Edition” (bằng tiếng Nhật). Japan: CDJapan. 26 tháng 5 năm 2017. Lưu trữ bản gốc 4 Tháng sáu năm 2017. Truy cập 28 tháng Năm năm 2017.
  68. ^ “Britney Spears Releases Full 'Glory' Track List”. Billboard. 19 tháng 8 năm 2016. Lưu trữ bản gốc 25 Tháng mười hai năm 2016. Truy cập 24 Tháng mười hai năm 2016.
  69. ^ a b “Britney Spears – Glory”. United States: iTunes Store. 26 tháng 8 năm 2016. Lưu trữ bản gốc 20 Tháng mười hai năm 2016. Truy cập 4 Tháng mười hai năm 2016.
  70. ^ “Los discos más vendidos”. Diario de Cultura. ILHSA Grupo. Bản gốc lưu trữ 19 tháng Chín năm 2016. Truy cập 25 Tháng Ba năm 2023.
  71. ^ "Australiancharts.com – Britney Spears – Glory" (bằng tiếng Anh). Hung Medien. Truy cập September 3, 2016.
  72. ^ "Austriancharts.at – Britney Spears – Glory" (bằng tiếng Đức). Hung Medien. Truy cập September 8, 2016.
  73. ^ "Ultratop.be – Britney Spears – Glory" (bằng tiếng Hà Lan). Hung Medien. Truy cập September 2, 2016.
  74. ^ "Ultratop.be – Britney Spears – Glory" (bằng tiếng Pháp). Hung Medien. Truy cập September 2, 2016.
  75. ^ "Britney Spears Chart History (Canadian Albums)". Billboard (bằng tiếng Anh). Truy cập September 7, 2016.
  76. ^ “TOP 40 STRANIH – TJEDAN 42. 2016” (bằng tiếng Croatia). HDU. 27 tháng 10 năm 2016. Lưu trữ bản gốc 27 tháng Mười năm 2016. Truy cập 10 tháng Mười năm 2023.
  77. ^ "Czech Albums – Top 100". ČNS IFPI. Ghi chú: Trên trang biểu đồ này, chọn {{{date}}} trên trường này ở bên cạnh từ "Zobrazit", và sau đó nhấp qua từ để truy xuất dữ liệu biểu đồ chính xác. Truy cập September 5, 2016.
  78. ^ “Album Top-40”. Hitlisten. Truy cập 7 tháng Chín năm 2016.
  79. ^ "Dutchcharts.nl – Britney Spears – Glory" (bằng tiếng Hà Lan). Hung Medien. Truy cập September 2, 2016.
  80. ^ “Britney: She did it again!” (bằng tiếng Estonia). Raadio 2. 19 tháng 9 năm 2016. Lưu trữ bản gốc 6 tháng Mười năm 2016. Truy cập 19 tháng Chín năm 2016.
  81. ^ "Britney Spears: Glory" (bằng tiếng Phần Lan). Musiikkituottajat – IFPI Finland. Truy cập September 4, 2016.
  82. ^ Hamard, Jonathan (2 tháng 9 năm 2016). “Ventes de la semaine 35 : Céline Dion cartonne, Britney Spears et M Pokora démarrent timidement” (bằng tiếng Pháp). Aficia. Bản gốc lưu trữ 4 Tháng tám năm 2019. Truy cập 3 tháng Chín năm 2016.
  83. ^ "Offiziellecharts.de – Britney Spears – Glory" (bằng tiếng Đức). GfK Entertainment Charts. Truy cập September 2, 2016.
  84. ^ “Top-75 Albums Sales Chart Week: 36/2016”. IFPI Greece. Bản gốc lưu trữ 19 tháng Mười năm 2016. Truy cập 19 tháng Chín năm 2016.
  85. ^ "Album Top 40 slágerlista – 2016. 34. hét" (bằng tiếng Hungary). MAHASZ. Truy cập September 1, 2016.
  86. ^ "GFK Chart-Track Albums: Week 35, 2016". Chart-Track. IRMA. Truy cập September 2, 2016.
  87. ^ "Italiancharts.com – Britney Spears – Glory" (bằng tiếng Anh). Hung Medien. Truy cập September 3, 2016.
  88. ^ “週間 CDアルバムランキング” (bằng tiếng Nhật). Oricon. Lưu trữ bản gốc 21 tháng Chín năm 2016. Truy cập 23 tháng Chín năm 2016.
  89. ^ “週間 洋楽アルバムランキング” (bằng tiếng Nhật). Oricon. Lưu trữ bản gốc 23 tháng Chín năm 2016. Truy cập 26 tháng Chín năm 2016.
  90. ^ “Top Album – Semanal (del 26 de Agosto al 1 de Septiembre)”. Amprofon. Bản gốc lưu trữ 10 tháng Chín năm 2016. Truy cập 21 Tháng sáu năm 2016.
  91. ^ "Charts.nz – Britney Spears – Glory" (bằng tiếng Anh). Hung Medien. Truy cập September 2, 2016.
  92. ^ "Norwegiancharts.com – Britney Spears – Glory" (bằng tiếng Anh). Hung Medien. Truy cập September 3, 2016.
  93. ^ "Oficjalna lista sprzedaży :: OLiS - Official Retail Sales Chart" (bằng tiếng Ba Lan). OLiS. Polish Society of the Phonographic Industry. Truy cập September 8, 2016.
  94. ^ "Portuguesecharts.com – Britney Spears – Glory" (bằng tiếng Anh). Hung Medien. Truy cập September 6, 2016.
  95. ^ 2, 2016/40/ "Official Scottish Albums Chart Top 100" (bằng tiếng Anh). Official Charts Company. Truy cập September 3, 2016.
  96. ^ “South African Top 20 Albums Chart”. RSG (Recording Industry of South Africa). Bản gốc lưu trữ 21 tháng Chín năm 2016. Truy cập 20 Tháng Một năm 2024.
  97. ^ “2016년 35주차 Album Chart” (bằng tiếng Hàn). Circle Music Chart. Bản gốc lưu trữ 3 tháng Chín năm 2016. Truy cập 27 Tháng tám năm 2016.
  98. ^ “2017년 23주차 Album Chart” (bằng tiếng Hàn). Circle Music Chart. Lưu trữ bản gốc 18 Tháng sáu năm 2017. Truy cập 20 Tháng Một năm 2024.
  99. ^ "Spanishcharts.com – Britney Spears – Glory" (bằng tiếng Anh). Hung Medien. Truy cập May 13, 2020.
  100. ^ "Swedishcharts.com – Britney Spears – Glory" (bằng tiếng Anh). Hung Medien. Truy cập September 2, 2016.
  101. ^ "Swisscharts.com – Britney Spears – Glory" (bằng tiếng Đức). Hung Medien. Truy cập September 7, 2016.
  102. ^ "Britney Spears | Artist | Official Charts" (bằng tiếng Anh). UK Albums Chart. Truy cập September 3, 2016.
  103. ^ "Britney Spears Chart History (Billboard 200)". Billboard (bằng tiếng Anh). Truy cập September 5, 2016.
  104. ^ “Album Chart (2016.08)” (bằng tiếng Hàn). Circle Music Chart. Truy cập ngày 30 tháng 10 năm 2024.
  105. ^ “Palacio de la Música (Setiembre 2016)” (bằng tiếng Tây Ban Nha). Uruguayan Chamber of Disc (CUD). Bản gốc lưu trữ 25 tháng Mười năm 2016. Truy cập 27 Tháng tư năm 2023.
  106. ^ “Rapports Annuels 2016 Albums”. Hung Medien. Lưu trữ bản gốc 29 Tháng mười hai năm 2016. Truy cập 29 Tháng mười hai năm 2016.
  107. ^ “Los más vendidos 2016” (bằng tiếng Tây Ban Nha). Asociación Mexicana de Productores de Fonogramas y Videogramas. Bản gốc lưu trữ 18 Tháng Một năm 2017. Truy cập 18 Tháng Một năm 2017.
  108. ^ “2016년 Album Chart” (bằng tiếng Hàn). Circle Music Chart. Lưu trữ bản gốc 15 Tháng Một năm 2017. Truy cập 23 Tháng Một năm 2019.
  109. ^ “Top Billboard 200 Albums – Year-End 2016”. Billboard. Lưu trữ bản gốc 8 Tháng mười hai năm 2016. Truy cập 8 Tháng mười hai năm 2016.
  110. ^ “Chứng nhận album Canada – Britney Spears – Glory” (bằng tiếng Anh). Music Canada. Truy cập 18 tháng Mười năm 2023.
  111. ^ August 26, 2016 releases for Glory:
  112. ^ “Britney Spears – Glory (Deluxe Edition) (Korea Version)” (bằng tiếng Hàn). Korea: YesAsia. 30 tháng 8 năm 2016. Lưu trữ bản gốc 4 tháng Chín năm 2016. Truy cập 29 Tháng tám năm 2016.
  113. ^ “Britney Spears – Glory (Japan Edition)”. cdjapan.co.jp. 14 tháng 9 năm 2016. Lưu trữ bản gốc 23 Tháng tám năm 2016. Truy cập 20 Tháng tám năm 2016.
  114. ^ “Britney Spears – Glory Japan Tour Edition [Limited Pressing]”. cdjapan.co.jp. 1 tháng 5 năm 2017. Lưu trữ bản gốc 4 tháng Năm năm 2017. Truy cập 1 tháng Năm năm 2017.
  115. ^ “Britney Spears – Glory China Edition”. Amazon.cn. Truy cập 4 Tháng sáu năm 2017.
  116. ^ “Britney Spears – Glory”. Spotify. 29 tháng 5 năm 2020. Lưu trữ bản gốc 27 Tháng sáu năm 2020. Truy cập 29 tháng Năm năm 2020.
  117. ^ “Glory – Britney Spears (Deluxe Edition) Apple Music”. Lưu trữ bản gốc 10 Tháng tám năm 2022. Truy cập 10 Tháng tám năm 2022.
  118. ^ “Glory (Deluxe)” (bằng tiếng Anh). Spotify. Lưu trữ bản gốc 10 Tháng mười hai năm 2020. Truy cập 10 Tháng mười hai năm 2020.

Liên kết ngoài

[sửa | sửa mã nguồn]