Bước tới nội dung

Giancarlo Esposito

Bách khoa toàn thư mở Wikipedia
Giancarlo Esposito
Esposito in 2024
SinhGiancarlo Giuseppe Alessandro Esposito
26 tháng 4, 1958 (66 tuổi)
Copenhagen, Đan Mạch
Quốc tịchAmerican
Trường lớpElizabeth Seton College
Nghề nghiệpActor
Năm hoạt động1968–hiện tại
Phối ngẫu
Joy McManigal
(không rõ ngày tháng, ld.)
Con cái4

Giancarlo Giuseppe Alessandro Esposito (tiếng Ý: [dʒaŋˈkarlo dʒuˈzɛppe alesˈsandro eˈspɔːzito]; sinh ngày 26 tháng 4 năm 1958) là một diễn viên người Mỹ. Anh được biết đến nhiều nhất qua vai Gus Fring trong loạt phim chính kịch tội phạm Breaking Bad của AMC, từ năm 2009 đến năm 2011, cũng như trong loạt phim tiền truyện Better Call Saul, từ năm 2017 đến năm 2022. Với vai diễn này, anh đã giành được Giải thưởng truyền hình Critics' Choice cho Nam diễn viên phụ xuất sắc nhất trong phim chính kịch (2012) và nhận được ba đề cử cho Giải thưởng Primetime Emmy cho Nam diễn viên phụ xuất sắc nhất trong phim chính kịch.

Các vai diễn truyền hình khác của anh bao gồm Đặc vụ Liên bang Mike Giardello trong loạt phim Homicide: Life on the Street (1998–1999) của NBC, Sidney Glass / Magic Mirror trong loạt phim giả tưởng Once Upon a Time (2011–2017) của ABC, Tom Neville trong loạt phim Revolution (2012–2014) của NBC, Tiến sĩ Edward Ruskins trong loạt phim Dear White People (2017–2021) của Netflix, Stan Edgar trong loạt phim The Boys (2019–nay) của AmazonThe Boys Presents: Diabolical (2022) và Moff Gideon trong loạt phim The Mandalorian (2019–2023) của Disney+, phần sau cùng đã mang về cho anh hai đề cử Giải Primetime Emmy. Anh cũng vào vai Adam Clayton Powell Jr. trong loạt phim Godfather of Harlem (2019–nay) của MGM+, diễn xuất trong Westworld (2016) và đóng vai chính trong loạt phim truyền hình Kaleidoscope (2023) và The Gentlemen (2024) của Netflix.

Anh cũng được biết đến qua các vai diễn trong một số bộ phim của Spike Lee, chẳng hạn như School Daze (1988), Do the Right Thing (1989), Mo' Better Blues (1990) và Malcolm X (1992). Những bộ phim lớn khác của anh bao gồm Taps (1981), King of New York (1990), Bob Roberts (1992), Fresh (1994), The Usual Suspects (1995), Ali (2001), Monkeybone (2001), Last Holiday (2006), Rabbit Hole (2010), The Jungle Book (2016), Okja (2017) và Stargirl (2020).

Tiểu sử

[sửa | sửa mã nguồn]

Giancarlo Giuseppe Alessandro Esposito sinh ra tại Copenhagen, Đan Mạch, là con trai của Giovanni "John" C. Esposito, một người làm sân khấu và thợ mộc người Ý đến từ Naples, và Elizabeth "Leesa" Foster, một ca sĩ opera và hộp đêm người Mỹ gốc Phi đến từ Alabama.[1][2][3][4]

Khi Esposito lên sáu, gia đình anh chuyển đến Manhattan.[5][6] Anh theo học tại Elizabeth Seton CollegeNew York và lấy bằng hai năm về truyền thông phát thanh và truyền hình.[6]

Đời tư

[sửa | sửa mã nguồn]

Esposito đã kết hôn với Joy McManigal.[7] Họ có bốn cô con gái. Sau đó, họ ly hôn.[8] Sau khi ly hôn, Esposito phải tuyên bố phá sản và anh đã cân nhắc đến việc tự tử bằng cách sắp xếp vụ giết người của chính mình để có tiền bảo hiểm cho các con trước khi được chọn vào vai trong Breaking Bad.[9][10][11]

Anh được nuôi dạy theo đạo Công giáo và cân nhắc đến việc trở thành một linh mục.[12]

Tham khảo

[sửa | sửa mã nguồn]
  1. ^ Ferraro, Thomas J. (2005). Feeling Italian: The Art of Ethnicity in America. NYU Press. ISBN 978-0-8147-2730-0.
  2. ^ LeVasseur, Andrea (2003). “Giancarlo Esposito Pictures, Biography, Filmography, News, Videos”. All Movie Guide. Starpulse. Bản gốc lưu trữ ngày 21 tháng 1 năm 2010. Truy cập ngày 10 tháng 4 năm 2009.
  3. ^ “Giancarlo Esposito Biography (1958–)”. Film Reference. NetIndustries, LLC. Truy cập ngày 10 tháng 4 năm 2009. Giancarlo Giuseppi Alessandro Esposito; born April 26, 1958, in Copenhagen, Denmark; raised in New York City, father, a stagehand and carpenter; mother, an opera and nightclub singer; married Joy McManigal (a producer), June 1995; children: Shayne Lyra, Kale Lyn
  4. ^ “Giancarlo Esposito and confrontation”. Los Angeles Times. Bản gốc lưu trữ ngày 10 tháng 6 năm 2013.
  5. ^ Andrews-Dyer, Helena (18 tháng 12 năm 2020). “You've seen Giancarlo Esposito in everything. Now the actor wants you to see him as himself”. The Washington Post. Bản gốc lưu trữ ngày 18 tháng 12 năm 2020. Truy cập ngày 18 tháng 12 năm 2020.
  6. ^ a b “Giancarlo Esposito heads to Reggae Film Festival”. Jamaica Gleaner. 26 tháng 3 năm 2012. Truy cập ngày 23 tháng 1 năm 2016.
  7. ^ “Giancarlo Esposito Biography”. TV Guide. Truy cập ngày 1 tháng 11 năm 2021.
  8. ^ Heisler, Steve (7 tháng 10 năm 2011). “Giancarlo Esposito”. AV Club. Truy cập ngày 8 tháng 10 năm 2011. Well, I'm divorced from my wife, although we are very dear friends.
  9. ^ “Giancarlo Esposito always had leading man credentials. 'Parish' just makes it official”. Associated Press (bằng tiếng Anh). 4 tháng 4 năm 2024. Truy cập ngày 18 tháng 4 năm 2024. I was a man up against the wall 10, 15 years ago — completely. Went bankrupt. Lost my house. Divorced, you know, wound up living in a goat barn for a while... Didn't know if I'd ever get my career back on track.
  10. ^ Seitz, Matt Zoller (15 tháng 4 năm 2024). “Giancarlo Esposito Finds Elegance in Every Bad Guy”. Vulture (bằng tiếng Anh). Truy cập ngày 18 tháng 4 năm 2024. I was thinking about suicide because I was well insured. But I would have had to have somebody kill me in order to be able to have my family get the insurance money.
  11. ^ Sharf, Zack (18 tháng 4 năm 2024). “Giancarlo Esposito Was So Broke Before 'Breaking Bad' That He Considered Arranging His Own Murder So His Kids Could Get His Life Insurance Money”. Variety (bằng tiếng Anh). Truy cập ngày 16 tháng 6 năm 2024. My way out in my brain was: 'Hey, do you get life insurance if someone commits suicide? Do they get the bread?' My wife had no idea why I was asking this stuff. I started scheming. If I got somebody to knock me off, death by misadventure, [my kids] would get the insurance. I had four kids. I wanted them to have a life. It was a hard moment in time. I literally thought of self-annihilation so they could survive. That's how low I was.
  12. ^ “TRANSCRIPT Giancarlo Esposito”. Maximum Fun (bằng tiếng Anh). 16 tháng 6 năm 2020. Truy cập ngày 5 tháng 5 năm 2022.