Bước tới nội dung

Franz Josef Strauß

Bách khoa toàn thư mở Wikipedia
Franz Josef Strauss
Strauss vào năm 1982
Thủ hiến của bang Bayern
Nhiệm kỳ
6 tháng 11 năm 1978 – 3 tháng 10 năm 1988
9 năm, 332 ngày
Tiền nhiệmAlfons Goppel
Kế nhiệmMax Streibl
Bộ trưởng Tài chính Đức
Nhiệm kỳ
2 tháng 12 năm 1966 – 22 tháng 10 năm 1969
2 năm, 324 ngày
Tiền nhiệmKurt Schmücker
Kế nhiệmAlex Möller
Bộ trưởng quốc phòng Đức
Nhiệm kỳ
16 tháng 10 năm 1956 – 16 tháng 12 năm 1962
6 năm, 61 ngày
Tiền nhiệmTheodor Blank
Kế nhiệmKai-Uwe von Hassel
Bộ trưởng về vấn đề Nguyên tử
Nhiệm kỳ
21 tháng 10 năm 1955 – 16 tháng 10 năm 1956
361 ngày
Kế nhiệmSiegfried Balke
Bộ trưởng các vấn đề đặc biệt
Nhiệm kỳ
1953 – 1955
Thông tin cá nhân
Sinh(1915-09-06)6 tháng 9 năm 1915
München
Mất3 tháng 10 năm 1988(1988-10-03) (73 tuổi)
Regensburg
Quốc tịchĐức
Đảng chính trịCSU
Phối ngẫuMarianne Zwicknagl
Con cáiMax Josef
Franz Georg
Monika
Chữ ký

Franz Josef Strauss (tiếng Đức: Franz Josef Strauß, IPA: [ˈfʁants ˈjoːzɛf ˈʃtʁaʊs]; 6 tháng 9 năm 1915 – 3 tháng 10 năm 1988) là một chính khách Đức. Ông là chủ tịch đảng CSU từ năm 1961 cho tới khi chết, bộ trưởng liên bang trong nhiều vị trí khác nhau và là thủ hiến của bang Bayern tới khi qua đời.

Tiểu sử và học vấn 1915–1939

[sửa | sửa mã nguồn]

Franz Josef Strauß là người con thứ hai của nhà hàng thịt Franz Josef Strauß (1875–1949) và bà Walburga[1] (1877–1962). Gia đình ông sống ở München từ năm 1904 tại đường Schellingstraße 49 vùng Maxvorstadt theo đạo công giáo và rất sùng đạo, bảo hoàng và có khuynh hướng chống lại nước Phổ, ủng hộ việc tách rời Bayern ra khỏi đế chế Đức.[2] Sau khi lấy bằng tú tài vào tháng 3 năm 1935 tại Maximiliansgymnasium ở München với số điểm cao nhất Bayern từ năm 1910, Strauß được học bổng của Stiftung Maximilianeum học làm giáo viên ngành cổ ngữ Âu châu và Lịch sử tại Ludwig-Maximilians-Universität München.

Thế chiến thứ Hai

[sửa | sửa mã nguồn]

Trong thế chiến thứ Hai, từ tháng 8 năm 1939 ông phải đi lính. Tuy nhiên ông vẫn được tiếp tục thực tập khóa 1940/41 ở trường học và trở thành giáo viên. Đầu năm 1943, trong mặt trận miền Đông ông bị tê cóng chân lúc trở về, và được cho về München dạy học, đồng thời là sĩ quan chính trị. Chức vụ cao nhất của ông cho đến khi chiến tranh chấm dứt là thượng úy.

Sự nghiệp chính trị

[sửa | sửa mã nguồn]

Ngay sau thời chiến

[sửa | sửa mã nguồn]

Khi chiến tranh chấm dứt Strauß bị bắt, nhưng được xếp vào loại không hoạt động chính trị cho Đức Quốc xã. Sau đó ông làm việc như là thông dịch viên cho quân đội Hoa Kỳ, rồi được phong chức phó huyện trưởng huyện Schongau, bây giờ là một phần của huyện Weilheim-Schongau.[3]

1946 ông cùng thành lập nhóm CSU huyện Schongau và được bầu làm huyện trưởng Schongau. Từ 1948 Strauß là thành viên của hội đồng kinh tế ở thành phố Frankfurt am Main, 1949 ông được Hans Ehard phong làm tổng bí thư đảng CSU.

Thư mục

[sửa | sửa mã nguồn]

Liên kết ngoài

[sửa | sửa mã nguồn]

Chú thích

[sửa | sửa mã nguồn]
  1. ^ Schuler, Strauß. Die Biografie einer Familie. Frankfurt am Main 2006, Seite 19
  2. ^ Werner Biermann, Strauß. Aufstieg und Fall einer Familie. Rowohlt, Berlin 2006.
  3. ^ "Strauss, Franz Josef - Federal Republic of Germany - Minister of Defense". Central Intelligence Agency. Juli 1961. Bản gốc lưu trữ ngày 17 tháng 5 năm 2012. Truy cập ngày 17 tháng 4 năm 2010. Kiểm tra giá trị ngày tháng trong: |ngày truy cập=|ngày tháng= (trợ giúp)