Curcuma harmandii
Curcuma harmandii | |
---|---|
Tình trạng bảo tồn | |
Phân loại khoa học | |
Giới (regnum) | Plantae |
(không phân hạng) | Angiospermae |
(không phân hạng) | Monocots |
(không phân hạng) | Commelinids |
Bộ (ordo) | Zingiberales |
Họ (familia) | Zingiberaceae |
Phân họ (subfamilia) | Zingiberoideae |
Tông (tribus) | Zingibereae |
Chi (genus) | Curcuma |
Loài (species) | C. harmandii |
Danh pháp hai phần | |
Curcuma harmandii Gagnep., 1907[2] |
Curcuma harmandii là một loài thực vật có hoa trong họ Gừng. Loài này được François Gagnepain mô tả khoa học đầu tiên năm 1907.[2][3]
Các mẫu định danh gồm 1 mẫu do L. Pierre thu thập tại Nam Kỳ ngày 24 tháng 4 năm 1867 (mẫu MNHN-P-P00292625) và 3 mẫu do François-Jules Harmand và Alexandre Godefroy-Lebeuf thu thập tại núi Pursat, Campuchia ngày 20 tháng 6 năm 1875,[4] (Gagnepain viết nhầm, tương ứng thành tháng 4 năm 1870 và ngày 20 tháng 6 năm 1856).[2]
Phân bố
[sửa | sửa mã nguồn]Là một loại cây nhiệt đới bản địa miền đông, đông nam và miền trung Thái Lan, Campuchia (các tỉnh Kampong Speu và Pursat),[1][5] và có thể có ở miền nam Việt Nam (?).[2] Môi trường sinh sống là rừng lá sớm rụng và rừng thường xanh khô ở cao độ 100–500 m.[1]
Mô tả
[sửa | sửa mã nguồn]Cây cao khoảng 0,5 m. Thân rễ không mập. Lá 3, hình trứng-hình mác, 25-35 x 8–10 cm, đáy thu nhỏ, đỉnh nhọn đột ngột và phần nhọn ngắn, cả hai mặt nhẵn nhụi; cuống lá (với bẹ) dài 20–30 cm; bẹ khoảng 3, không bằng nhau, không phiến; các bẹ trên đi ngang qua cuống lá; lưỡi bẹ teo đi. Cụm hoa thò ra từ giữa các lá, có cuống dài 20–30 cm; cành hoa bông thóc lỏng lẻo, dài 12–15 cm; lá bắc 8-10, xếp thành 2 hàng, dài 5–6 cm, rộng tới 3 cm, màu xanh lục, nửa phía dưới có rãnh, tự chúng bao quanh lẫn nhau, nửa trên hơi lõm, tỏa rộng, dần thu nhỏ, đỉnh gần như nhọn. Hoa 4-6, dài 3-3,3 cm, xanh lục hoặc vàng, ẩn trong lá bắc; lá bắc con hình mác, nhỏ, dài 1-1,5 cm. Đài hoa hình ống, thanh mảnh, nhẵn nhụi, đỉnh 3 răng, răng nhỏ, tù. Tràng hoa dài gấp đôi đài hoa; các thùy hình mác. Đáy bao phấn có 2 cựa. Bầu nhụy nhẵn nhụi, vỏ ngoài mỏng. Hạt nhiều, dài 405 mm, rộng 2,5–3 mm, hình trứng-đa diện, màu vàng ánh đỏ, bóng.[2]
C. harmandii hơi giống C. albiflora có ở Ceylon về cách sắp xếp các lá bắc tỏa rộng và xếp lợp lỏng lẻo; nhưng loài ở Đông Dương khác biệt ở chỗ:[2]
- Lá của nó bao quanh cụm hoa và không ở bên với nó và dài hơn cuống lá;
- Cuống cụm hoa không bao giờ có vảy kèm theo ở dưới lá bắc;
- Các lá bắc lớn hơn bao bọc nhau ở gốc, rời, phân đôi và nhọn ở nửa trên của chúng;
- Hoa được bao hoàn toàn trong lá bắc nên chúng chiếm nách lá bắc và không lồi ra ngoài.
Chú thích
[sửa | sửa mã nguồn]- Tư liệu liên quan tới Curcuma harmandii tại Wikimedia Commons
- Dữ liệu liên quan tới Curcuma harmandii tại Wikispecies
- Vườn thực vật hoàng gia Kew; Đại học Harvard; Australian Plant Name Index (biên tập). “Curcuma harmandii”. International Plant Names Index.
- ^ a b c Leong-Skornickova, J.; Tran, H.D.; Newman, M.; Lamxay, V.; Bouamanivong, S. (2019). “Curcuma harmandii”. The IUCN Red List of Threatened Species. 2019: e.T201885A132687969. doi:10.2305/IUCN.UK.2019-3.RLTS.T201885A132687969.en. Truy cập ngày 28 tháng 2 năm 2021.
- ^ a b c d e f Gagnepain F., 1907. Zingibéracées, Marantacées et Musacées nouvelles fe l’herbier du Muséum: Curcuma harmandii. Bulletin de la Société Botanique de France 54 (serie 4, tập 7): 404.
- ^ The Plant List (2010). “Curcuma harmandii”. Truy cập ngày 16 tháng 7 năm 2013.
- ^ Isotypes tại MNHN.
- ^ Curcuma harmandii trong Plants of the World Online. Tra cứu ngày 28-2-2021.