Cryptocentrus cyanotaenia
Cryptocentrus cyanotaenia | |
---|---|
Tình trạng bảo tồn | |
Phân loại khoa học | |
Giới (regnum) | Animalia |
Ngành (phylum) | Chordata |
Lớp (class) | Actinopterygii |
Bộ (ordo) | Gobiiformes |
Họ (familia) | Gobiidae |
Phân họ (subfamilia) | Gobiinae |
Chi (genus) | Cryptocentrus |
Loài (species) | C. cyanotaenia |
Danh pháp hai phần | |
Cryptocentrus cyanotaenia (Bleeker, 1853) | |
Danh pháp đồng nghĩa | |
|
Cryptocentrus cyanotaenia là một loài cá biển thuộc chi Cryptocentrus trong họ Cá bống trắng. Loài này được mô tả lần đầu tiên vào năm 1853.
Từ nguyên
[sửa | sửa mã nguồn]Từ định danh cyanotaenia được ghép bởi hai âm tiết trong tiếng Hy Lạp cổ đại: kuáneos (κυάνεος; "xanh dương") và tainía (ταινία; "dải, băng"), hàm ý đề cập đến các vạch xiên màu xanh óng trên đầu và gốc vây ngực của loài cá này.[2]
Phân bố và môi trường sống
[sửa | sửa mã nguồn]Theo Sách đỏ IUCN (2021), nhiều ghi chép về C. cyanotaenia là nhầm lẫn với Cryptocentrus multicinctus, và có lẽ cũng với Cryptocentrus leonis. C. cyanotaenia có phân bố chắc chắn ở khu vực Đông Nam Á, bao gồm quần đảo Hà Tiên (Việt Nam),[3] đảo Java (Indonesia), Thái Lan (thuộc bờ vịnh Thái Lan), Malaysia, Singapore, Brunei, Campuchia và đảo New Hanover (thuộc quần đảo Bismarck).[1]
Ghi nhận của C. cyanotaenia xa về phía tây như tại đảo Hormuz (ngoài khơi eo biển Hormuz, Iran)[4] và bờ biển bang Tamil Nadu (Ấn Độ)[5] đều cần xem xét lại.[1]
C. cyanotaenia sống trên nền cát bùn trong các đầm phá và rạn san hô, được tìm thấy ở độ sâu đến ít nhất là 12 m.[1]
Mô tả
[sửa | sửa mã nguồn]Chiều dài lớn nhất được ghi nhận ở C. cyanotaenia là 12 cm.[6] Cá có màu xám nâu, đầu và gốc vây ngực có nhiều vạch xiên ngắn màu xanh lam óng. Có 4–5 vệt sẫm mờ ở hai bên thân. Vây hậu môn có các sọc xám và vàng.
Số gai ở vây lưng: 6–7; Số tia ở vây lưng: 10; Số gai ở vây hậu môn: 1; Số tia ở vây hậu môn: 10.[6]
Sinh thái
[sửa | sửa mã nguồn]Một cặp C. cyanotaenia sống cộng sinh trong hang với tôm gõ mõ.[6]
Thương mại
[sửa | sửa mã nguồn]C. cyanotaenia có thể là một thành phần trong ngành buôn bán cá cảnh, nhưng cũng có khả năng những cá thể C. cyanotaenia được bán lại là C. multicinctus.[1]
Tham khảo
[sửa | sửa mã nguồn]- ^ a b c d e Larson, H.; Hoese, D.; Murdy, E.; Pezold, F.; Cole, K. & Shibukawa, K. (2021). “Cryptocentrus cyanotaenia”. Sách đỏ IUCN về các loài bị đe dọa. 2021: e.T193012A2184397. doi:10.2305/IUCN.UK.2021-1.RLTS.T193012A2184397.en. Truy cập ngày 11 tháng 1 năm 2024.Quản lý CS1: nhiều tên: danh sách tác giả (liên kết)
- ^ Christopher Scharpf biên tập (2023). “Order Gobiiformes: Family Gobiidae (a-c)”. The ETYFish Project Fish Name Etymology Database.
- ^ Trần Văn Hướng; Nguyễn Văn Hiếu; Đỗ Anh Duy; Vũ Quyết Thành; Nguyễn Khắc Bát (2021). “Bước đầu nghiên cứu thành phần loài và phân bố cá rạn san hô vùng biển ven quần đảo Hải Tặc, tỉnh Kiên Giang”. Tạp chí Khoa học Trường Đại học Cần Thơ. 57 (4A): 93–101. doi:10.22144/ctu.jvn.2021.117. ISSN 1859-2333.
- ^ Sadeghi, Reza; Esmaeili, Hamid Reza; Riazi, Mona; Taherizadeh, Mohamad Reza; Safaie, Mohsen (2019). “Lagoon shrimp goby, Cryptocentrus cyanotaenia (Bleeker, 1853) (Teleostei: Gobiidae), an additional fish element for the Iranian waters” (PDF). Iranian Journal of Ichthyology. 6 (2): 98–105. doi:10.22034/iji.v6i2.417. ISSN 2383-0964.
- ^ Prakash, S.; Kumar, T. T. Ajith; Rao, R. Vishwas; Gunasundari, V. (2015). “First record of two species of goby fish, Cryptocentrus cyanotaenia Bleeker and Istigobius diadema Steindachner (Perciformes: Gobiidae) in Indian waters” (PDF). Indian Journal of Geo-Marine Sciences. 44 (8): 1252–1256. ISSN 0975-1033.
- ^ a b c Ranier Froese và Daniel Pauly (chủ biên). Thông tin Cryptocentrus cyanotaenia trên FishBase. Phiên bản tháng 6 năm 2024.