Bước tới nội dung

Cryptocentrus cyanotaenia

Bách khoa toàn thư mở Wikipedia
Cryptocentrus cyanotaenia
Tình trạng bảo tồn
Phân loại khoa học
Giới (regnum)Animalia
Ngành (phylum)Chordata
Lớp (class)Actinopterygii
Bộ (ordo)Gobiiformes
Họ (familia)Gobiidae
Phân họ (subfamilia)Gobiinae
Chi (genus)Cryptocentrus
Loài (species)C. cyanotaenia
Danh pháp hai phần
Cryptocentrus cyanotaenia
(Bleeker, 1853)
Danh pháp đồng nghĩa
  • Gobius cyanotaenia Bleeker, 1853

Cryptocentrus cyanotaenia là một loài cá biển thuộc chi Cryptocentrus trong họ Cá bống trắng. Loài này được mô tả lần đầu tiên vào năm 1853.

Từ nguyên

[sửa | sửa mã nguồn]

Từ định danh cyanotaenia được ghép bởi hai âm tiết trong tiếng Hy Lạp cổ đại: kuáneos (κυάνεος; "xanh dương") và tainía (ταινία; "dải, băng"), hàm ý đề cập đến các vạch xiên màu xanh óng trên đầu và gốc vây ngực của loài cá này.[2]

Phân bố và môi trường sống

[sửa | sửa mã nguồn]

Theo Sách đỏ IUCN (2021), nhiều ghi chép về C. cyanotaenia là nhầm lẫn với Cryptocentrus multicinctus, và có lẽ cũng với Cryptocentrus leonis. C. cyanotaenia có phân bố chắc chắn ở khu vực Đông Nam Á, bao gồm quần đảo Hà Tiên (Việt Nam),[3] đảo Java (Indonesia), Thái Lan (thuộc bờ vịnh Thái Lan), Malaysia, Singapore, Brunei, Campuchiađảo New Hanover (thuộc quần đảo Bismarck).[1]

Ghi nhận của C. cyanotaenia xa về phía tây như tại đảo Hormuz (ngoài khơi eo biển Hormuz, Iran)[4] và bờ biển bang Tamil Nadu (Ấn Độ)[5] đều cần xem xét lại.[1]

C. cyanotaenia sống trên nền cát bùn trong các đầm phárạn san hô, được tìm thấy ở độ sâu đến ít nhất là 12 m.[1]

Chiều dài lớn nhất được ghi nhận ở C. cyanotaenia là 12 cm.[6] Cá có màu xám nâu, đầu và gốc vây ngực có nhiều vạch xiên ngắn màu xanh lam óng. Có 4–5 vệt sẫm mờ ở hai bên thân. Vây hậu môn có các sọc xám và vàng.

Số gai ở vây lưng: 6–7; Số tia ở vây lưng: 10; Số gai ở vây hậu môn: 1; Số tia ở vây hậu môn: 10.[6]

Sinh thái

[sửa | sửa mã nguồn]

Một cặp C. cyanotaenia sống cộng sinh trong hang với tôm gõ mõ.[6]

Thương mại

[sửa | sửa mã nguồn]

C. cyanotaenia có thể là một thành phần trong ngành buôn bán cá cảnh, nhưng cũng có khả năng những cá thể C. cyanotaenia được bán lại là C. multicinctus.[1]

Tham khảo

[sửa | sửa mã nguồn]
  1. ^ a b c d e Larson, H.; Hoese, D.; Murdy, E.; Pezold, F.; Cole, K. & Shibukawa, K. (2021). Cryptocentrus cyanotaenia. Sách đỏ IUCN về các loài bị đe dọa. 2021: e.T193012A2184397. doi:10.2305/IUCN.UK.2021-1.RLTS.T193012A2184397.en. Truy cập ngày 11 tháng 1 năm 2024.Quản lý CS1: nhiều tên: danh sách tác giả (liên kết)
  2. ^ Christopher Scharpf biên tập (2023). “Order Gobiiformes: Family Gobiidae (a-c)”. The ETYFish Project Fish Name Etymology Database.
  3. ^ Trần Văn Hướng; Nguyễn Văn Hiếu; Đỗ Anh Duy; Vũ Quyết Thành; Nguyễn Khắc Bát (2021). “Bước đầu nghiên cứu thành phần loài và phân bố cá rạn san hô vùng biển ven quần đảo Hải Tặc, tỉnh Kiên Giang”. Tạp chí Khoa học Trường Đại học Cần Thơ. 57 (4A): 93–101. doi:10.22144/ctu.jvn.2021.117. ISSN 1859-2333.
  4. ^ Sadeghi, Reza; Esmaeili, Hamid Reza; Riazi, Mona; Taherizadeh, Mohamad Reza; Safaie, Mohsen (2019). “Lagoon shrimp goby, Cryptocentrus cyanotaenia (Bleeker, 1853) (Teleostei: Gobiidae), an additional fish element for the Iranian waters” (PDF). Iranian Journal of Ichthyology. 6 (2): 98–105. doi:10.22034/iji.v6i2.417. ISSN 2383-0964.
  5. ^ Prakash, S.; Kumar, T. T. Ajith; Rao, R. Vishwas; Gunasundari, V. (2015). “First record of two species of goby fish, Cryptocentrus cyanotaenia Bleeker and Istigobius diadema Steindachner (Perciformes: Gobiidae) in Indian waters” (PDF). Indian Journal of Geo-Marine Sciences. 44 (8): 1252–1256. ISSN 0975-1033.
  6. ^ a b c Ranier Froese và Daniel Pauly (chủ biên). Thông tin Cryptocentrus cyanotaenia trên FishBase. Phiên bản tháng 6 năm 2024.