Bước tới nội dung

Cryptocentrus caeruleomaculatus

Bách khoa toàn thư mở Wikipedia
Cryptocentrus caeruleomaculatus
Tình trạng bảo tồn
Phân loại khoa học
Giới (regnum)Animalia
Ngành (phylum)Chordata
Lớp (class)Actinopterygii
Bộ (ordo)Gobiiformes
Họ (familia)Gobiidae
Phân họ (subfamilia)Gobiinae
Chi (genus)Cryptocentrus
Loài (species)C. caeruleomaculatus
Danh pháp hai phần
Cryptocentrus caeruleomaculatus
(Herre, 1933)
Danh pháp đồng nghĩa
  • Mars caeruleomaculatus Herre, 1933
  • Ctenogobius culionensis Herre, 1934

Cryptocentrus caeruleomaculatus là một loài cá biển thuộc chi Cryptocentrus trong họ Cá bống trắng. Loài này được mô tả lần đầu tiên vào năm 1933.

Từ nguyên

[sửa | sửa mã nguồn]

Từ định danh caeruleomaculatus được ghép bởi hai âm tiết trong tiếng Latinh: caeruleus (“xanh dương”) và maculatus (“có đốm”), hàm ý đề cập đến những đốm nhỏ màu xanh óng nằm rải rác trên cơ thể của loài cá này.[2]

Phân bố và môi trường sống

[sửa | sửa mã nguồn]

Từ quần đảo Ryukyu (Nhật Bản), C. caeruleomaculatus có phân bố trải dài về phía nam đến Tây Úcrạn san hô Great Barrier, băng qua vùng biển Đông Nam Á, phía đông đến quần đảo Carolinequần đảo Solomon.[1]Việt Nam, C. cinctus được ghi nhận tại vịnh Nha Trang[3]vịnh Hạ Long.[4]

C. caeruleomaculatus sống trong các đầm phá và trên rạn san hô, được tìm thấy ở độ sâu đến ít nhất là 30 m.[5]

Chiều dài chuẩn lớn nhất được ghi nhận ở C. caeruleomaculatus là 10 cm.[5] Cá có màu nâu xám, nhiều chấm xanh óng trên đầu và thân. Có những đốm tròn màu nâu đen ở giữa thân với các dải sọc mờ dọc hai bên hông. Đầu cũng có những chấm đỏ, cũng như các đốm tròn đỏ trên vây lưng và vây hậu môn kèm theo các sọc vàng nâu.

Số gai ở vây lưng: 7; Số tia ở vây lưng: 9–10; Số gai ở vây hậu môn: 1; Số tia ở vây hậu môn: 9; Số tia ở vây ngực: 15–17.[6]

Tình trạng phân loại

[sửa | sửa mã nguồn]

C. caeruleomaculatus tạo thành nhóm phức hợp loài với Cryptocentrus strigillicepsCryptocentrus altipinna. Đặc trưng của nhóm này là có vảy lược bao phủ cả nửa thân sau.[6]

Sinh thái

[sửa | sửa mã nguồn]

C. caeruleomaculatus sống cộng sinh trong hang với tôm gõ mõ.[6]

Thương mại

[sửa | sửa mã nguồn]

C. caeruleomaculatus có thể là một thành phần trong hoạt động buôn bán cá cảnh.[1]

Tham khảo

[sửa | sửa mã nguồn]
  1. ^ a b c Larson, H. (2016). Cryptocentrus caeruleomaculatus. Sách đỏ IUCN về các loài bị đe dọa. 2016: e.T193003A2183288. doi:10.2305/IUCN.UK.2016-3.RLTS.T193003A2183288.en. Truy cập ngày 20 tháng 1 năm 2024.
  2. ^ Christopher Scharpf biên tập (2023). “Order Gobiiformes: Family Gobiidae (a-c)”. The ETYFish Project Fish Name Etymology Database.
  3. ^ Đỗ Thị Cát Tường; Nguyễn Văn Long (2015). “Đặc điểm thành phần loài và phân bố của họ Cá bống trắng (Gobiidae) trong các rạn san hô ở vịnh Nha Trang” (PDF). Tuyển tập nghiên cứu biển. 21 (2): 124–135.
  4. ^ Seishi Kimura; Hisashi Imamura; Nguyễn Văn Quân; Phạm Thùy Dương biên tập (2018). Fishes of Ha Long Bay, the World Natural Heritage Site in northern Vietnam (PDF). Đại học Mie, Nhật Bản: Fisheries Research Laboratory. tr. 257.Quản lý CS1: nhiều tên: danh sách biên tập viên (liên kết)
  5. ^ a b Ranier Froese và Daniel Pauly (chủ biên). Thông tin Cryptocentrus caeruleomaculatus trên FishBase. Phiên bản tháng 6 năm 2024.
  6. ^ a b c Hoese, Douglass F. (2019). “A review of the Cryptocentrus strigilliceps complex (Teleostei: Gobiidae), with description of a new species” (PDF). Journal of the Ocean Science Foundation. 32: 23–38. doi:10.5281/ZENODO.2539733.