Chang Myon
Chang Myon | |
---|---|
Chức vụ | |
Nhiệm kỳ | 15 tháng 8 năm 1956 – 25 tháng 4 năm 1960 |
Tiền nhiệm | Ham Tae-yeong |
Kế nhiệm | Lee Ki-bung |
Thủ tướng Hàn Quốc thứ nhì | |
Nhiệm kỳ | 23 tháng 11 năm 1950 – 24 tháng 4 năm 1952 |
Tiền nhiệm | Shin Sung-mo (quyền) |
Kế nhiệm | Yi Yun-yong (quyền) |
Thủ tướng Hàn Quốc thứ 7 | |
Nhiệm kỳ | 18 tháng 8 năm 1960 – 18 tháng 5 năm 1961 |
Tiền nhiệm | Heo Jeong |
Kế nhiệm | (sau khi chức vụ được phục hồi) Choi Doo Sun |
Thông tin cá nhân | |
Sinh | Seoul, Đế quốc Đại Hàn (nay là Hàn Quốc) | 28 tháng 8, 1899
Mất | 4 tháng 6, 1966 Seoul, Hàn Quốc | (66 tuổi)
Tôn giáo | Công giáo Rôma |
Tên | |
Hangul | 장면 |
---|---|
Hanja | 張勉 |
Romaja quốc ngữ | Jang Myeon |
McCune–Reischauer | Chang Myŏn |
Chang Myun (Hangul: 장면 (âm Việt: Chang Mion); chữ Hán: 張勉, âm Hán Việt: Trương Miễn) (1899 - 1966) là Thủ tướng thứ 2 và thứ 7, là Phó Tổng thống thứ 4 của Đại Hàn Dân Quốc.
Ông là tín đồ Công giáo Rôma, ông tốt nghiệp ở Manhattan College tại Thành phố New York. Ông đã giữ chức Đại sứ đầu tiên của Đại Hàn Dân quốc tại Hoa Kỳ từ năm 1949 đến năm 1951. Ông đã được bổ nhiệm là Thủ tướng thứ nhì của Đại Hàn Dân quốc ngày 23 tháng 11 năm 1950. Năm 1956, ông được bầu làm Phó Tống thống sau khi chính quyền của Syngman Rhee bị lập đổ bởi cuộc nổi dậy do sinh viên lãnh đạo, ông được bổ nhiệm là Thủ tướng của Đệ nhị Cộng hòa vào năm 1960. Tại thời kỳ Đệ nhị Cộng hòa, Hàn Quốc có một chính phủ nghị viện với một thủ tướng.[1] Dù chức vụ tổng thống vẫn tồn tại, Chang Myon đã có vai trò như người đứng đầu chính phủ. Chính phủ của Chang Myon đã kết thúc khi Park Chung-hee đã lãnh đạo đảo chính thành công, kết thúc Đệ nhị Cộng hòa.
Sách
[sửa | sửa mã nguồn]- Tự truyện, Những hạt lúa mì không chết (한알의 밀이 죽지 않고는)