Bước tới nội dung

Chương trình đánh giá học sinh quốc tế

Bách khoa toàn thư mở Wikipedia
Chương trình đánh giá học sinh quốc tế
Viết tắtPISA
Nhà phát triển / quản lýOECD
Kiến thức / kỹ năng kiểm traToán,khoa học, đọc hiểu
Mục đíchSo sánh trình độ học vấn trên toàn thế giới
Năm bắt đầu2007
Tổ chức3 năm một lần
Quốc gia / khu vựcToàn cầu
Ngôn ngữTiếng Anh và tiếng Pháp
Điểm được sử dụng bởiNằm trong độ tuổi từ 15 năm 3 tháng đến 16 năm 2 tháng
Trang mạngwww.oecd.org/pisa

Chương trình Đánh giá học sinh quốc tế (Programme for International Student Assessment - PISA) là một khảo sát quốc tế do tổ chức OECD (Organisation for Economic Co-operation and Development) đề xuất, để đánh giá khả năng của học sinh 15 tuổi của các nước và vùng lãnh thổ trong và ngoài OECD, về toán, khoa họcđọc hiểu. Chương trình được thực hiện từ năm 2007 và cứ 3 năm lặp lại một lần. Mục đích của chương trình là cung cấp các dữ liệu so sánh nhằm giúp các nước cải thiện các chính sách và kết quả giáo dục. Chương trình hướng vào việc đo lường sự hiểu biết và khả năng giải quyết vấn đề trong cuộc sống hàng ngày của học sinh. Vào năm 2015 có 72 nước và vùng lãnh thổ, với tổng số khoảng 540.000 học sinh tham gia chương trình. PISA cũng khảo sát các mối quan hệ giữa việc học của học sinh và các yếu tố khác để hiểu rõ sự khác biệt về kết quả trong mỗi nước và giữa các nước.

Nội dung đánh giá

[sửa | sửa mã nguồn]

PISA kiểm tra mức hiểu biết và vận dụng trong ba lĩnh vực: đọc hiểu, toán và khoa học. PISA không kiểm tra kiến thức thu được tại trường học mà xem xét năng lực phổ thông thực tế của học sinh. Bài thi chú trọng đánh giá khả năng học sinh vận dụng kiến thức và kỹ năng của mình khi đối mặt với những tình huống và thử thách liên quan đến kiến thức và kỹ năng đó. Về toán học, đánh giá khả năng học sinh vận dụng hiểu biết toán học của họ để giải quyết các vấn đề được đặt ra trong bối cảnh thực tế. Về khoa học, kiểm tra khả năng vận dụng những kiến thức khoa học để hiểu và giải thích các tình huống toán học. Về đọc hiểu, đo lường mực độ vận dụng kiến thức và kỹ năng đọc để hiểu ý nghĩa của những thứ họ đọc được qua nhiều loại tài liệu khác nhau mà họ gặp trong cuộc sống. Tuy mọi lần đánh giá đều được thực hiện trên cả ba lĩnh vực, nhưng mỗi lần có tập trung nhiều hơn vào một lĩnh vực và sẽ thay đổi tuần tự (năm 2000: đọc hiểu; 2003: Toán; 2006: Khoa học; 2009: Đọc hiểu; 2012: Toán; 2015: Khoa học ...).

Tổ chức đánh giá

[sửa | sửa mã nguồn]

PISA do OECD đề xuất, bảo trợ và quản lý, các thành viên tham gia đóng góp kinh phí.

Lấy mẫu

[sửa | sửa mã nguồn]

Học sinh tham gia kiểm tra nằm trong độ tuổi từ 15 năm 3 tháng đến 16 năm 2 tháng tính đến ngày kiểm tra, không cần quan tâm đến học lớp mấy, tuy nhiên chỉ đánh giá học sinh học ở trường, không phải tự học tại nhà. Theo yêu cầu đó, mỗi quốc gia phải lấy một mẫu ít nhất 5000 học sinh tham gia. Việc lấy mẫu được thực hiện bằng phương pháp khoa học để đảm bảo tính đại diện cho cả nước (hoặc vùng lãnh thổ) tham gia, và được quản lý rất nghiêm ngặt bởi tổ chức quản lý PISA của OECD. Đối với vài nước có học sinh ít hơn ngưỡng đó (Bỉ, Brussel) thì việc kiểm tra được thực hiện trên toàn bộ học sinh. Một số nước lấy các mẫu lớn hơn so với yêu cầu để có thể so sánh kết quả giữa các vùng trong nước với nhau.

Bài kiểm tra và bảng hỏi

[sửa | sửa mã nguồn]

Mỗi học sinh làm một bài kiểm tra trong 2 giờ. Một phần là các câu hỏi nhiều lựa chọn, một phần khác là các câu hỏi mà học sinh tự tạo câu trả lời, nhưng mỗi học sinh không phải được kiểm tra mọi thành phần của bài thi như nhau. Các bài kiểm tra được dịch sang bản ngữ của các nước tham gia và thẩm định rất cẩn thận. Sau khi làm bài kiểm tra về kiến thức, các thí sinh phải trả lời một bảng hỏi (questionnaire) trong gần một giờ về sở thích, động lực và hoàn cảnh gia đình. Hiệu trưởng nhà trường trả lời bảng hỏi mô tả về học sinh, giáo viên, tài chính v.v.. của trường. PISA được thực hiện phần lớn bằng bài thi trên giấy. Ở một số nước PISA bắt đầu thử nghiệm sử dụng kiểm tra theo phương pháp đáp ứng nhờ máy tính (computer adaptive testing).

Phân tích dữ liệu, kết nối và so bằng

[sửa | sửa mã nguồn]

Dữ liệu từ các bài làm và phiếu kiểm tra của học sinh và hiệu trưởng được nhập vào máy tính, sau đó được tính toán và phân tích. Công cụ phân tích là các phần mềm tính toán dựa trên mô hình RaschLý thuyết Ứng đáp Câu hỏi [1]. Các kết quả kiểm tra từ các nước khác nhau được kết nối (linking), so bằng (equating) đưa lên cùng một thang đo (scaling) để có thể so sánh với nhau. Thang điểm cho các lĩnh vực (toán, đọc hiểu và khoa học) được quy định đặt giá trị trung bình ở 500 điểm và độ lệch tiêu chuẩn bằng 100 điểm.[1] Các bảng hỏi cũng được phân tích, kết nối với kết quả kiểm tra kiến thức về các lĩnh vực để rút ra các nhận xét và đánh giá liên quan đến chính sách và hiệu quả giáo dục.

Kết quả

[sửa | sửa mã nguồn]

Kết quả hàng năm của PISA thường được công bố vào tháng 12 của năm kế tiếp, đăng ở trang web www.oecd.org/pisa, dưới dạng các báo cáo, trong các báo cáo có các bảng sắp xếp điểm trung bình của học sinh từng nước theo các lĩnh vực kiểm tra. OECD không đưa ra điểm tổng hợp của 3 lĩnh vực. Thông thường có thể xem sự sai khác về điểm vào khoảng 9 điểm là có ý nghĩa thống kê (statistically significant). Dưới đây là kết quả ngắn gọn của PISA 2015 được công bố vào ngày 6 tháng 12 năm 2016 dưới dạng bảng xếp thứ tự các nước và vùng lãnh thổ theo từng lĩnh vực đánh giá. Bảng dưới đây được trích từ [PISA, Wikipedia,English]. Từ bảng kết quả có thể thấy Singapore là nước mà kết quả kiểm tra học sinh ở cả ba lĩnh vực đều đứng đầu bảng.

Toán học Khoa học Đọc hiểu
1  Singapore 564
2  Hồng Kông 548
3  Ma Cao 544
4  Đài Loan 542
5  Nhật Bản 532
6  Trung Quốc 531
7  Hàn Quốc 524
8  Thụy Sĩ 521
9  Estonia 520
10  Canada 516
11  Hà Lan 512
12  Đan Mạch 511
13  Phần Lan 511
14  Slovenia 510
15  Bỉ 507
16  Đức 506
17  Ba Lan 504
18  Ireland 504
19  Na Uy 502
20  Áo 497
21  New Zealand 495
22  Việt Nam 495
23  Nga 494
24  Thụy Điển 494
25  Úc 494
26  Pháp 493
27  Anh Quốc 492
28  Cộng hòa Séc 492
29  Bồ Đào Nha 492
30  Ý 490
31  Iceland 488
32  Tây Ban Nha 486
33  Luxembourg 486
34  Latvia 482
35  Malta 479
36  Litva 478
37  Hungary 477
38  Slovakia 475
39  Israel 470
40  Hoa Kỳ 470
41  Croatia 464
42  Kazakhstan 460
43  Hy Lạp 454
44  Malaysia 446
45  România 444
46  Bulgaria 441
47  Síp 437
48  Các Tiểu vương quốc Ả Rập Thống nhất 427
49  Chile 423
50  Thổ Nhĩ Kỳ 420
51  Moldova 420
52  Uruguay 418
53  Montenegro 418
54  Trinidad và Tobago 417
55  Thái Lan 415
56  Albania 413
57  Argentina 409
58  México 408
59  Gruzia 404
60  Qatar 402
61  Costa Rica 400
62  Liban 396
63  Colombia 390
64  Perú 387
65  Indonesia 386
66  Jordan 380
67  Brasil 377
68  Macedonia 371
69  Tunisia 367
70  Kosovo 362
71  Algérie 360
72  Cộng hòa Dominica 328
1  Singapore 556
2  Nhật Bản 538
3  Estonia 534
4  Đài Loan 532
5  Phần Lan 531
6  Ma Cao 529
7  Canada 528
8  Việt Nam 525
9  Hồng Kông 523
10  Trung Quốc 518
11  Hàn Quốc 516
12  New Zealand 513
13  Slovenia 513
14  Úc 510
15  Anh Quốc 509
16  Đức 509
17  Hà Lan 509
18  Thụy Sĩ 506
19  Ireland 503
20  Bỉ 502
21  Đan Mạch 502
22  Ba Lan 501
23  Bồ Đào Nha 501
24  Na Uy 498
25  Hoa Kỳ 496
26  Áo 495
27  Pháp 495
28  Thụy Điển 493
29  Cộng hòa Séc 493
30  Tây Ban Nha 493
31  Latvia 490
32  Nga 487
33  Luxembourg 483
34  Ý 481
35  Hungary 477
36  Litva 475
37  Croatia 475
38  Iceland 473
39  Israel 467
40  Malta 465
41  Slovakia 461
42  Kazakhstan 456
43  Hy Lạp 455
44  Chile 447
45  Bulgaria 446
46  Malaysia 443
47  Các Tiểu vương quốc Ả Rập Thống nhất 437
48  Uruguay 435
49  România 435
50  Síp 433
51  Argentina 432
52  Moldova 428
53  Albania 427
54  Thổ Nhĩ Kỳ 425
55  Trinidad và Tobago 425
56  Thái Lan 421
57  Costa Rica 420
58  Qatar 418
59  Colombia 416
60  México 404
61  Montenegro 411
62  Gruzia 411
63  Jordan 409
64  Indonesia 403
65  Brasil 401
66  Perú 397
67  Liban 386
68  Tunisia 386
69  Macedonia 384
70  Kosovo 378
71  Algérie 376
72  Cộng hòa Dominica 332
1  Singapore 535
2  Hồng Kông 527
3  Canada 527
4  Phần Lan 526
5  Ireland 521
6  Estonia 519
7  Hàn Quốc 517
8  Nhật Bản 516
9  Na Uy 513
10  New Zealand 509
11  Đức 509
12  Ma Cao 509
13  Ba Lan 506
14  Slovenia 505
15  Hà Lan 503
16  Úc 503
17  Thụy Điển 500
18  Đan Mạch 500
19  Pháp 499
20  Bỉ 499
21  Bồ Đào Nha 498
22  Anh Quốc 498
23  Đài Loan 497
24  Hoa Kỳ 497
25  Tây Ban Nha 496
26  Nga 495
27  Trung Quốc 494
28  Thụy Sĩ 492
29  Latvia 488
30  Cộng hòa Séc 487
31  Croatia 487
32  Việt Nam 487
33  Áo 485
34  Ý 485
35  Iceland 482
36  Luxembourg 481
37  Israel 479
38  Litva 472
39  Hungary 470
40  Hy Lạp 467
41  Chile 459
42  Slovakia 453
43  Malta 447
44  Síp 443
45  Uruguay 437
46  România 434
47  Các Tiểu vương quốc Ả Rập Thống nhất 434
48  Bulgaria 432
49  Malaysia 431
50  Thổ Nhĩ Kỳ 428
51  Costa Rica 427
52  Trinidad và Tobago 427
53  Kazakhstan 427
54  Montenegro 427
55  Argentina 425
56  Colombia 425
57  México 423
58  Moldova 416
59  Thái Lan 409
60  Jordan 408
61  Brasil 407
62  Albania 405
63  Qatar 402
64  Gruzia 401
65  Perú 398
66  Indonesia 397
67  Tunisia 361
68  Cộng hòa Dominica 358
69  Macedonia 352
70  Algérie 350
71  Kosovo 347
72  Liban 347

Việt Nam tham gia PISA

[sửa | sửa mã nguồn]

Viêt Nam bắt đầu tham gia PISA từ đợt đánh giá năm 2012, theo mẫu học sinh được lấy trong cả nước. Việc chọn mẫu rất nghiêm ngặt, theo phương pháp chọn ngẫu nhiên nhờ phần mềm do ban quản lý PISA của OECD cung cấp và giám sát. Kết quả của học sinh Việt Nam qua 2 lần tham gia chương trình PISA được biểu diễn ở bảng sau (trong các ô số trước là thứ hạng, số sau là điểm số):

Năm Toán Khoa học Đọc hiểu
2012 17 ↔ 511 8 ↔ 528 19 ↔ 508
2015 22 ↔ 495 8 ↔ 525 32 ↔ 487

Để hiểu rõ hơn kết quả trên, có thể xem điểm trung bình các lĩnh vực đánh giá của khối các nước OECD ở bảng sau:

Năm Toán Khoa học Đọc hiểu
2012 494 501 496
2015 490 493 493

Như vậy, kết quả kiểm tra của Việt Nam ở cả ba lĩnh vực được đánh giá, trừ lĩnh vực đọc hiểu trong kỳ 2015, đều cao hơn giá trị trung bình của các nước OECD.

Tham khảo

[sửa | sửa mã nguồn]
  1. ^ Lâm Quang Thiệp (2011). Đo lường trong Giáo dục – Lý thuyết và ứng dụng. Nhà xuất bản Đại học Quốc gia Hà Nội