Bước tới nội dung

Canh trứng kiến

Bách khoa toàn thư mở Wikipedia
Canh trứng kiến
Tên khácGaeng Kai Mot Daeng
LoạiCanh
Xuất xứLào, Đông Bắc Thái Lan
Vùng hoặc bangĐông Nam Á
Nhiệt độ dùngNóng
Thành phần chínhTrứng kiến

Canh trứng kiến là món canh làm từ trứng của loài kiến ​​thợ dệt Oecophylla smaragdina. Đây ​​là món ăn truyền thống trong ẩm thực miền bắc LàoThái Lan. Chúng cũng được ưa chuộng ở Campuchia và trên đảo Hải Nam của Trung Quốc. Ngoài món canh này có chứa trứng kiến ​​là thành phần nguyên liệu chính, trứng kiến ​​có thể được thêm vào làm thành món trang trí cho nhiều loại canh. Chúng có vị chua và gợi lên nỗi nhớ về vùng nông thôn.

Biến thể khu vực

[sửa | sửa mã nguồn]

Canh trứng kiến ​​là một phần của nền ẩm thực LàoThái Lan. Đây được xem là món ăn truyền thống của những người nông dân tự cung tự cấp ở miền bắc Lào và Thái Lan,[1][2] đóng vai trò là nguồn cung cấp protein quan trọng.[1] Món này bên Lào gọi là Gaeng Khai Moht.[a][3] Các loại canh trứng kiến ​​cũng là món khoái khẩu của dân chúng vùng Isan (Đông Bắc Thái Lan).[4] Canh trứng kiến ​​và rễ Lôi Công là món ăn địa phương truyền thống ở đảo Hải Nam của Trung Quốc, do hai làng Miêu và Lý thuộc thành phố Ngũ Chỉ Sơn chế biến.[5]

Thu hoạch trứng kiến

[sửa | sửa mã nguồn]
Trứng kiến ​​ở một khu chợ tại Thái Lan.

Thành phần chính trong món canh trứng kiến ​​là trứng kiến, đặc biệt là trứng từ loài kiến ​​thợ dệt Oecophylla smaragdina. Những con kiến ​​đỏ này xây tổ ở mặt dưới của cành cây xoài (Mangifera indica) và cây dừa (Cocos nucifera). Người thu hoạch trứng kiến ​​sẽ dùng gậy đập vỡ tổ kiến ​​để nó rơi xuống xô nước bên dưới.[3] Theo như ghi chép, những quả trứng kiến ​​ngon nhất được thu hoạch từ những tổ nằm trên cây xoài.[3]

Việc thu hoạch trứng kiến ​​có thể bắt đầu vào tháng 2 hoặc tháng 3 và kéo dài trong suốt mùa hè. Canh trứng kiến ​​là món ăn phổ biến vào cuối mùa hè.[1] Do gắn liền với vùng nông thôn, món này từng được coi là "biểu tượng của đời sống nông thôn",[1] và gợi lên nỗi hoài niệm của cư dân thành thị Lào.[1]

Chuẩn bị

[sửa | sửa mã nguồn]

Canh là một trong những cách sử dụng trứng kiến ​​phổ biến nhất trong ẩm thực. Trong canh, trứng kiến ​​thường được thêm vào vào cuối quá trình nấu. Để trang trí, chúng có thể được thêm vào nhiều loại canh khác nhau[6] và bỏ thêm "vị chua đặc trưng".[1] Công thức nấu canh trứng kiến có thể bao gồm các nguyên liệu như nước luộc gà, sả, nước mắm, ớt, me, hẹ tây và hành lá.[3]

Ở Thái Lan, một loại bọ hung (Psilophosis sp.) đôi khi được nghiền nhỏ và bỏ thêm vào canh trứng kiến ​​đỏ.[7]

Chú thích

[sửa | sửa mã nguồn]
  1. ^ Những biến thể khác của tên gọi này bao gồm Gaeng Kai Mot Daeng, Keang Khai MoodKaeng Kai Mot Daeng.

Tham khảo

[sửa | sửa mã nguồn]
  1. ^ a b c d e f Standage, Tom (2021). “Why ant-egg soup is a nostalgic treat in Laos”. Truly Peculiar: Fantastic Facts That Are Stranger Than Fiction (bằng tiếng Anh). Profile. ISBN 978-1-78283-893-7.
  2. ^ “Urban Laotians pay handsomely for ant-egg soup”. The Economist. 13 tháng 8 năm 2020.
  3. ^ a b c d Cooper, Robert (2008). CultureShock! Laos: A Survival Guide to Customs and Etiquette (bằng tiếng Anh). Marshall Cavendish International Asia Pte Ltd. tr. 211. ISBN 978-981-4398-64-0.
  4. ^ Anderson, E. N.; Buell, Paul D.; Goldstein, Darra (2018). Asian Cuisines: Food Culture from East Asia to Turkey and Afghanistan (bằng tiếng Anh). Berkshire Publishing Group. tr. 48. ISBN 978-1-61472-846-7.
  5. ^ Hao, Ni (2018). Travel Guide of Hainan (bằng tiếng Anh). DeepLogic. ASIN B07K789N41.
  6. ^ Culloty, Dorothy (2010). Food from Northern Laos: The Boat Landing Cookbook (bằng tiếng Anh). Galangal Press. tr. 94. ISBN 978-0-473-17236-7.
  7. ^ Mitsuhashi, Jun (2016). Edible Insects of the World (bằng tiếng Anh). CRC Press. ISBN 978-1-315-35088-2.