Của hồi môn
Của hồi môn là sự chuyển giao tài sản của cha mẹ, quà tặng hoặc tiền trong cuộc hôn nhân của con gái.[1] Của hồi môn trái ngược với các khái niệm có liên quan của giá cô dâu và khi cưới chú rể tặng tài sản cho cô dâu. Trong khi giá cô dâu hoặc dịch vụ cô dâu là một khoản thanh toán của chú rể hoặc gia đình anh ta cho cha mẹ cô dâu, thì của hồi môn là của cải được chuyển từ gia đình cô dâu sang chú rể hoặc gia đình chú rể, rõ ràng là cho cô dâu. Tương tự, tài sản cho cô dâu (dower) khi cưới là tài sản của cô dâu, do chú rể tặng tại thời điểm kết hôn, và vẫn thuộc quyền sở hữu và quyền kiểm soát của cô dâu nếu chú rể sau này chết đi.[2] Của hồi môn là một phong tục cổ xưa, và sự tồn tại của phong tục này cũng có thể có trước các ghi chép về nó. Của hồi môn tiếp tục được mong đợi và được yêu cầu như một điều kiện để chấp nhận hôn nhân ở một số nơi trên thế giới, chủ yếu ở một số khu vực châu Á, Bắc Phi và Balkan. Ở một số nơi trên thế giới, tranh chấp liên quan đến của hồi môn đôi khi dẫn đến các hành vi bạo lực đối với phụ nữ, bao gồm giết người và tấn công bằng axit.[3][4][5] Phong tục của hồi môn là phổ biến nhất trong các nền văn hóa mà có phụ hệ mạnh mẽ và mong đợi người phụ nữ sẽ sống với hoặc gần gia đình chồng của họ.[6] Của hồi môn có lịch sử lâu dài ở Châu Âu, Nam Á, Châu Phi và các nơi khác trên thế giới.[6]
Định nghĩa
[sửa | sửa mã nguồn]Của hồi môn là việc chuyển tài sản của cha mẹ cho con gái trong cuộc hôn nhân của cô ấy chứ không phải là việc chuyển tài sản do cái chết của chủ sở hữu (mortis causa).[1] Của hồi môn thiết lập ra một loại quỹ vợ chồng, bản chất của nó có thể rất khác nhau. Quỹ này có thể cung cấp một yếu tố bảo đảm tài chính trong tình trạng người vợ bị góa bụa hoặc chống lại một người chồng bỏ mặc vợ, và cuối cùng có thể dùng để nuôi các con của cô ấy.[1] Của hồi môn cũng có thể hướng tới việc thành lập một gia đình của hôn nhân, và do đó có thể bao gồm các đồ nội thất như khăn trải giường và đồ nội thất.
Trong tiếng địa phương, của hồi môn được gọi là Dahej trong tiếng Hin-đi, varadhachanai trong Tamil, jehaz trong Urdu và tiếng Ả Rập, joutuk ở Bengali, Jiazhuang trong tiếng Phổ Thông, çeyiz ở Thổ Nhĩ Kỳ, dấu chấm trong Pháp, daijo ở Nepal,[7] và ở các vùng khác nhau của châu Phi như serotwana,[8] idana, saduquat hoặc Mugtaf.[9][10][11]
Nguồn gốc
[sửa | sửa mã nguồn]Nghiên cứu so sánh của các nhà nhân chủng học Jack Goody về các hệ thống của hồi môn trên khắp thế giới sử dụng Atlas dân tộc học đã chứng minh rằng của hồi môn là một hình thức thừa kế được tìm thấy trong các xã hội Á-Âu từ Nhật Bản đến Ireland để thực hiện "phân chia tài sản" cho các con với cả hai giới tính. Thực tiễn này khác với phần lớn các xã hội châu Phi cận Sahara thực hành "thừa kế đồng nhất" trong đó tài sản chỉ được truyền cho trẻ em cùng giới tính với chủ sở hữu tài sản. Các xã hội châu Phi sau này được đặc trưng bởi việc truyền lại khái niệm "giá cô dâu", tiền, hàng hóa hoặc tài sản do chú rể hoặc gia đình anh ta trao cho cha mẹ của cô dâu (chứ không phải bản thân cô dâu).[12]
Goody đã chứng minh mối tương quan lịch sử giữa thực tiễn "phân chia tài sản" (của hồi môn) và phát triển nông nghiệp cày chuyên sâu một mặt và kế thừa đồng nhất (giá cô dâu) và mặt khác là nông nghiệp trồng trọt rộng rãi.[13] Dựa trên tác phẩm của Ester Boserup, Goody lưu ý rằng sự phân công lao động theo giới tính khác nhau trong nông nghiệp cày chuyên sâu và làm vườn chuyển dịch rộng rãi. Ở những vùng dân cư thưa thớt nơi diễn ra việc canh tác nương rẫy, phần lớn công việc nhà nông được phụ nữ thực hiện. Đây là những xã hội tạo ra giá cô dâu. Boserup liên kết thêm việc chuyển đổi nghề làm vườn với việc thực hành chế độ đa thê, và do đó, giá cô dâu được trả như một khoản bồi thường cho gia đình cô ấy vì gia đình đã bị mất đi sức lao động. Trong nông nghiệp cày việc làm nông phần lớn là công việc của nam giới; đây là nơi của hồi môn được tạo ra để trả cho gia đình chú rể.[14] Ngược lại, nông nghiệp sử dụng cày gắn liền với tài sản tư nhân và hôn nhân có xu hướng một vợ một chồng, để giữ tài sản trong gia đình hạt nhân. Gia đình gần gũi là đối tác kết hôn ưa thích để giữ gìn tài sản.[15]
Có một cuộc tranh luận học thuật về lý thuyết của Goody. Ví dụ, Sylvia Yanagisko lập luận rằng có một số xã hội bao gồm các bộ phận của Nhật Bản, Nam Ý và Trung Quốc, không ủng hộ tuyên bố của Goody rằng của hồi môn là một hình thức thừa kế nữ giới của tài sản nam giới. Bà lưu ý rằng Goody là một mô hình tiến hóa trong đó các biến lịch sử này có thể không phải là yếu tố quyết định ngày nay.[16] Ngược lại, Susan Mann lập luận với các ví dụ mà ngay cả ở cuối Trung Quốc, của hồi môn là một hình thức thừa kế cho nữ giới.[17]
Stanley J. Tambiah (đồng tác giả của Goody về "Bridewealth and hồi môn" trước đó [18]) sau đó lập luận rằng luận án tổng thể của Goody vẫn phù hợp ở Bắc Ấn Độ, mặc dù nó cần sửa đổi để đáp ứng hoàn cảnh địa phương. Ông chỉ ra rằng của hồi môn ở Bắc Ấn Độ chỉ được sử dụng một phần như một quỹ hôn nhân của cô dâu và một phần lớn được chuyển thẳng đến gia đình chung của chú rể. Điều này ban đầu dường như là ngược với mô hình của Goody, ngoại trừ ở Bắc Ấn Độ, gia đình chung gồm có bố mẹ chú rể, anh trai đã kết hôn và chị gái chưa lập gia đình và con cái thế hệ thứ ba của họ. Gia đình chung này đã kiểm soát phần này của hồi môn, mà họ dùng để giúp bổ sung cho của hồi môn của con gái/em gái mình. Nhưng khi cha mẹ qua đời và các gia đình tách ra, khối tài sản chung này sau đó được chia cho các con trai đã kết hôn, vì vậy cuối cùng, của hồi môn của cô dâu được trao cho gia đình chung đã trả lại cho cô và chồng như "quỹ chung của vợ chồng".[19]
Tham khảo
[sửa | sửa mã nguồn]- ^ a b c Goody, Jack (1976). Production and Reproduction: A Comparative Study of the Domestic Domain. Cambridge: Cambridge University Press. tr. 6.
- ^ Goody, Jack (1976). Production and Reproduction: A Comparative Study of the Domestic Domain. Cambridge: Cambridge University Press. tr. 8.
- ^ “BBC NEWS – Programmes – Crossing Continents – India's dowry deaths”. Lưu trữ bản gốc ngày 7 tháng 4 năm 2016. Truy cập ngày 20 tháng 4 năm 2016.
- ^ “Understanding and addressing violence against women” (PDF). Lưu trữ (PDF) bản gốc ngày 7 tháng 3 năm 2016.
- ^ “Combating Acid Violence in Bangladesh, India, and Cambodia” (PDF). Lưu trữ (PDF) bản gốc ngày 24 tháng 12 năm 2012.
- ^ a b “dowry | marriage custom”. Encyclopædia Britannica. Lưu trữ bản gốc ngày 16 tháng 10 năm 2015. Truy cập ngày 14 tháng 10 năm 2015.
- ^ Stevan Harrell and Sara A. Dickey, "Dowry Systems in Complex Societies", Ethnology, Vol. 24, No. 2 (April 1985), pp. 105–120. JSTOR 3773553.
- ^ John L. Comaroff (1981), Rules and Processes, University of Chicago Press, ISBN 0-226-11424-4; Chapter 6
- ^ Anderson, S. (2007), "Tính kinh tế của hồi môn và brideprice" trong Tạp chí Perspectives kinh tế, 21 (4), tr. 151-174.
- ^ Charles Mwalimu (2007), The Nigerian Legal System: Public Law, Volume 1 (ISBN 978-0-8204-7125-9), pp. 546–551.
- ^ Bride price: an insult to women, a burden to men? , BBC News, ngày 30 tháng 8 năm 2004.
- ^ Goody, Jack (1976). Production and Reproduction: A Comparative Study of the Domestic Domain. Cambridge: Cambridge University Press. tr. 7.
- ^ Goody, Jack (1976). Production and Reproduction: A Comparative Study of the Domestic Domain. Cambridge: Cambridge University Press. tr. 27–29.
- ^ Goody, Jack (1976). Production and Reproduction: A Comparative Study of the Domestic Domain. Cambridge: Cambridge University Press. tr. 32.
- ^ Goody, Jack (1976). Production and Reproduction: A Comparative Study of the Domestic Domain. Cambridge: Cambridge University Press. tr. 33–34.
- ^ Yanagisako, Sylvia (1979). “Family and Household: The analysis of domestic groups”. Annual Review of Anthropology. 8: 171–72. doi:10.1146/annurev.an.08.100179.001113.
- ^ Mann, S. (2008). Của hồi môn của cải và đức hạnh trong gia đình quý tộc Trung Thanh. Hoàng gia quá cố, 29 (1S), 64 Hóa76.
- ^ (Nhà xuất bản Đại học Cambridge, 1973)
- ^ Tambiah, Stanley J. (1989). “Bridewealth and Dowry Revisited: The posit of women in Sub-Saharan Africa and North India”. Current Anthropology. 30 (4): 426. doi:10.1086/203761.