Bước tới nội dung

Bố Khố Lý Ung Thuận

Bách khoa toàn thư mở Wikipedia
Bố Khố Lý Ung Thuận
Phồn thể布庫里雍順
Giản thể布库里雍顺

Bố Khố Lý Ung Thuận (tiếng Mãn: ᠪᡠᡴᡡᡵᡳ
ᠶᠣᠩᡧᠣᠨ
, chuyển tả: Bukūri Yongšon, tiếng Trung: 布庫里雍順,s=布库里雍顺; bính âm: Bùkùlǐ Yōngshùn) là thuỷ tổ theo truyền thuyết của các vị hoàng đế nhà Thanh sau này.

Huyền thoại

[sửa | sửa mã nguồn]

Bố Khố Lý Ung Thuận được Hoàng Thái Cực [1] tuyên bố là tổ tiên của gia tộc Ái Tân Giác La, hoàng tộc Trung Quốc thành lập ra nhà Thanh trong tương lai. Theo truyền thuyết, ba thiếu nữ trên thiên đường, cụ thể là Ân Cổ Luân (ᡝᠩᡤᡠᠯᡝᠨ, 恩古倫), Chính Cố Luân (ᠵᡝᠩᡤᡠᠯᡝᠨ, 正古倫) và Phất Khố Luân (ᡶᡝᡴᡠᠯᡝᠨ, 佛庫倫), đang tắm ở một hồ có tên là Bulhūri Omo (ᠪᡠᠯᡥᡡᡵᡳ
ᠣᠮᠣ
) gần dãy núi Trường Bạch . Một con chim ác là thả một miếng trái cây màu đỏ gần Phất Khố Luân, và bà đã ăn nó. Sau đó bà mang thai Bố Khố Lý Ung Thuận. Vì vậy, ông còn được gọi là “Thiên Thông” (天童).


Câu chuyện trên lần đầu tiên xuất hiện trong biên bản ghi chép ngày 6 tháng 5 năm Thiên Tông thứ chín (1635) tại Cổ Mãn Châu Đáng (舊滿洲檔). Nguyên nhân của sự việc này là do Bá Kỳ Lan được lệnh dẫn quân đi thảo phạt vùng Hổ Nhĩ Cáp ở Hắc Long Giang. Sau khi chiếm được nơi này, Bá Kỳ Lan dẫn quân trở về với hơn 2.000 quân Hổ Nhĩ Cáp đầu hàng. Một trong số họ là người đàn ông tên Danh Khiếu Mục Khắc Hy Khắc, người đã kể truyền thuyết này tại một bữa tiệc ăn mừng và thu hút sự chú ý của mọi người. Câu chuyện này sau đó đã được ghi chép lại trong các sách chính thức như "Mãn Châu thực lục" (滿洲實錄), "Mãn Châu nguyên lưu khảo" (滿洲源流考) và nhiều bộ chính sử khác vào thời nhà Thanh. Ngoài việc lặp đi lặp lại chủ đề, một số nội dung đã được thêm vào khiến chủ đề trở nên phức tạp hơn. Tuy nhiên, mặc dù câu chuyện đã được kéo dài, nhưng nội dung cơ bản của nó vẫn không thay đổi và phần lớn vẫn bắt nguồn từ câu chuyện do Danh Khiếu Mục Khắc Hy Khắc kể lại. Tuy nhiên, một số học giả tin rằng cái gọi là truyền thuyết thực sự chứa đựng những ý nghĩa khác. Trong tiếng Mãn Châu, Ân Cổ Luân (enggulen), Chính Khố Luân (jenggulen) và Phất Khố Luân (fekulen) có lẽ bao gồm "enen (con cái)", "jeje (cha)", "fefe (cơ quan sinh sản phụ nữ)" và "gulung (nói chuyện)". Cái gọi là ba nàng tiên rất có thể ám chỉ đến "con trai", "cha" và "mẹ". Theo truyền thuyết gốc, ý nghĩa của câu này là "một gia đình ba người Hổ Nhĩ Cáp đang tắm ở Hồ Bulhūri. Người cha đã bỏ đi vì một lý do nào đó sau khi đưa con trai đi tắm ở hồ, để lại người mẹ sinh đứa con thứ hai, Bố Khố Lý Ung Thuận." Toàn bộ truyền thuyết là Danh Khắc Mục Khắc Hy Khắc bề ngoài ca ngợi bộ tộc Mãn Châu là hậu duệ của các nàng tiên, nhưng thực chất đó là một sự châm biếm về tổ tiên của bộ tộc Mãn Châu là Bố Khố Lý Ung Thuận, người có thấp kém như một đứa con ngoài giá thú.

Người ta cho rằng đây là phiên bản gốc và Hồng Thái Cực đã đổi thành núi Trường Bạch. Điều này cho thấy tộc Ái Tân Giác La có nguồn gốc từ khu vực sông Amur, gần tỉnh Hắc Long Giang cùng các bộ tộc Nữ Chân khác ở thung lũng Amur cũng có phiên bản truyền miệng của cùng một câu chuyện. Nó cũng phù hợp với lịch sử của người Nữ Chân vì một số tổ tiên của người Mãn Châu có nguồn gốc từ phía bắc trước thế kỷ 14-15 ở Amur và chỉ sau đó mới di chuyển về phía nam. [2]

Hậu duệ

[sửa | sửa mã nguồn]

Một truyền thuyết khác là về hậu duệ của ông là Phạm Trà. Con cháu của Bố Khố Lý Ung Thuận không có khả năng cai trị đất nước, và sau nhiều thế hệ, cuối cùng họ đã dẫn đến một cuộc nổi loạn của đa số người dân, trong đó nhiều thành viên của gia tộc Ái Tân Giác La đã bị giết. Tuy nhiên, hậu duệ của ông là "Phạm Trà" đã được một con chim ác là cứu thoát và thoát khỏi thảm họa. Sau đó, người Mãn Châu trở nên hùng mạnh qua sự cai trị của nhiều thế hệ lãnh đạo, bao gồm Mạnh Đặc Mục, Sùng Sơn, Phúc Mãn, Giác Xương An. Sau khi nhà Thanh được thành lập, ông được đặt miếu hiệu "Thuỷ tổ" (始祖) nhưng không đặt thuỵ hiệu.

  1. ^ Pamela Kyle Crossley (15 tháng 2 năm 2000). A Translucent Mirror: History and Identity in Qing Imperial Ideology. University of California Press. tr. 198–. ISBN 978-0-520-92884-8.
  2. ^ Huang, Pei (1990). “New Light on The Origins of The Manchus”. Harvard Journal of Asiatic Studies. 50 (1): 239–282. doi:10.2307/2719229. JSTOR 2719229.
Thế phả quân chủ nhà Thanh
quá kế
Thanh Thủy Tổ
Bố Khố Lý Ung Thuận
Phạm Sát
Thanh Triệu Tổ
Mạnh Đặc Mục
Sung Thiện
Thỏa LaTích Bảo Tề Thiên Cổ
Thanh Hưng Tổ
Phúc Mãn
Thanh Cảnh Tổ
Giác Xương An
?–1583
Thanh Hiển Tổ
Tháp Khắc Thế
?–1583
Thanh Thái Tổ
Nỗ Nhĩ Cáp Xích
1559–1616–1626
Trang Thân vương
Thư Nhĩ Cáp Tề
1564–1611
Lễ Thân vương
Đại Thiện
1583–1648
Thanh Thái Tông
Hoàng Thái Cực
1592–1626–1643
Duệ Thân vương
Đa Nhĩ Cổn
1612–1650
Dự Thân vương
Đa Đạc
1614–1649
Trịnh Thân vương
Tế Nhĩ Cáp Lãng
1599–1655
Khắc Cần Quận vương
Nhạc Thác
1599–1639
Dĩnh Thân vương
Tát Cáp Lân
1604–1636
Túc Thân vương
Hào Cách
1609–1647
Trang Thân vương
Thạc Tắc
1627–1654
Thanh Thế Tổ
Phúc Lâm
1638–1643–1661
Thuận Thừa Quận vương
Lặc Khắc Đức Hồn
1619–1652
Thanh Thánh Tổ
Huyền Diệp
1654–1661–1722
Thanh Thế Tông
Dận Chân
1678–1723–1735
Di Thân vương
Dận Tường
1686–1730
Thanh Cao Tông
Hoằng Lịch
1711–1735–1796
Thanh Nhân Tông
Ngung Diễm
1760–1796–1820
Khánh Hi Thân vương
Vĩnh Lân
1766–1820
Thanh Tuyên Tông
Mân Ninh
1782–1820–1850
Đôn Thân vương
Miên Khải
1795–1838
Thụy Thân vương
Miên Hân
1805–1828
Bối tử
Miên Đễ
1811–1849
Bất nhập bát phân
Phụ quốc công
Miên Tính
1814–1879
Thanh Văn Tông
Dịch Trữ
1831–1850–1861
Cung Thân vương
Dịch Hân
1833–1898
Thuần Thân vương
Dịch Hoàn
1840–1891
Đôn Thân vương
Dịch Thông
1831–1889
Thụy Quận vương
Dịch Chí
1827–1850
Khánh Thân vương
Dịch Khuông
1838–1917
Thanh Mục Tông
Tái Thuần
1856–1861–1875
Thanh Đức Tông
Tái Điềm
1871–1875–1908
Thuần Thân vương
Tải Phong
1883–1951
Đoan Quận vương
Tái Y
1856–1922
Thanh Cung Tông
Phổ Nghi
1906–1908–1912–1967
Phổ Tuấn
1885–1942