Bước tới nội dung

Bầu cử tổng thống Hoa Kỳ 1868

Bách khoa toàn thư mở Wikipedia
Bầu cử tổng thống Hoa Kỳ 1868

← 1864 3 tháng 11 1868 1872 →

294 thành viên của Đại cử tri đoàn
148 phiếu phiếu để đắc cử
Số người đi bầu80.9% [1] Tăng 4.6 pp
 
Đề cử Ulysses S. Grant Horatio Seymour
Đảng Cộng hòa Dân chủ
Quê nhà Illinois New York
Đồng ứng cử Schuyler Colfax Francis Preston Blair Jr.
Phiếu đại cử tri 214 80
Tiểu bang giành được 26 8
Phiếu phổ thông  3,013,421 2,706,829
Tỉ lệ 52.7% 47.3%

Bản đồ hiển thị kết quả bầu cử. Đỏ biểu thị bang Grant/Colfax thắng, Xanh lam biểu thị bang Seymour/Blair thắng, và Xanh lục biểu thị bang chưa tái gia nhập Liên bang và do đó không có quyền bỏ phiếu. Các con số cho biết số phiếu đại cử tri được phân bổ cho mỗi tiểu bang.

Tổng thống trước bầu cử

Andrew Johnson
Dân chủ

Tổng thống được bầu

Ulysses S. Grant
Cộng hòa

Cuộc bầu cử tổng thống Hoa Kỳ năm 1868cuộc bầu cử tổng thống bốn năm một lần lần thứ 21, được tổ chức vào Thứ Ba, ngày 3 tháng 11 năm 1868. Đây là cuộc bầu cử đầu tiên trong Kỷ nguyên Tái thiết, ứng cử viên của Đảng Cộng hòa Ulysses S. Grant đã đánh bại Horatio Seymour của Đảng Dân chủ. Đây là cuộc bầu cử tổng thống đầu tiên diễn ra sau khi Nội chiến Hoa Kỳ kết thúc và chế độ nô lệ bị bãi bỏ. Đây là cuộc bầu cử đầu tiên mà người Mỹ gốc Phi có thể bỏ phiếu ở các bang miền Nam đang trong thời gian tái thiết, theo Đạo luật Tái thiết thứ nhất.

Tổng thống đương nhiệm Andrew Johnson kế nhiệm Abraham Lincoln vào năm 1865 sau khi Lincoln bị ám sát. Johnson, một đảng viên Đảng Dân chủ chủ chiến đến từ Tennessee, từng là đồng tranh cử với Lincoln vào năm 1864 với đề cử từ Đảng Liên minh Quốc gia, vốn ra đời để thu hút các đảng viên Cộng hòa và đảng viên Đảng Dân chủ chủ chiến. Khi lên nắm quyền, Johnson đã xung đột với Quốc hội kiểm soát bởi Đảng Cộng hòa về các chính sách Tái thiết và do đó bị luận tội và suýt bị phế truất khi cách biệt phiếu bãi nhiệm và tha bổng ông chỉ là 1 phiếu. Johnson đã nhận được một số sự ủng hộ để tái tranh cử tại Đại hội toàn quốc Đảng Dân chủ năm 1868, nhưng sau một số cuộc bỏ phiếu, đại hội đã đề cử Seymour, người trước đây từng là Thống đốc New York. Đại hội toàn quốc Đảng Cộng hòa năm 1868 đã nhất trí đề cử Tướng Grant, người giữ chức Tướng tư lệnh tối cao của Liên bang vào cuối Nội chiến. Đảng Dân chủ chỉ trích các chính sách Tái thiết của Đảng Cộng hòa và "đã vận động tranh cử bằng cách chống người da đen và ủng hộ người da trắng,"[2] trong khi Đảng Cộng hòa vận động dựa trên sự nổi tiếng của Grant và chiến thắng của Liên bang trong Nội chiến.

Grant đã giành chiến thắng cách biệt trong phiếu đại cử tri, nhưng cách biệt trong phiếu phổ thông lại hẹp nhiều. Ngoài sự nổi tiếng của mình ở miền Bắc, Grant còn hưởng lợi từ các phiếu bầu của những nô lệ mới được trao tự do ở miền Nam, trong khi nhiều người da trắng ở miền Nam bị tước quyền bỏ phiếu tạm thời. Vì 3 trong số các bang cũ của Liên minh miền Nam (Texas, MississippiVirginia) vẫn chưa tái gia nhập Liên bang, các đại cử tri của họ không thể bỏ phiếu trong cuộc bầu cử này. Đây là lần cuối cùng Missouri ủng hộ một ứng cử viên Đảng Cộng hòa cho đến năm 1904. Đây cũng là lần cuối cùng cho đến năm 1912, Đảng Dân chủ giành được nhiều phiếu đại cử tri từ miền Bắc (46) hơn miền Nam (34), mặc dù điều này một phần là do nhiều vấn đề liên quan đến Tái thiết, và vào năm 1912, Đảng Dân chủ nổi tiếng trên môi trường chính trị toàn quốc hơn cũng như dân số miền Bắc cao hơn. Đây cũng là lần cuối cùng đảng Cộng hòa giành được nhiều phiếu phổ thông ở miền Nam hơn ở miền Bắc cho đến năm 1964, một lần nữa do các bang tái thiết như Nam Carolina hay Tennessee.

Bối cảnh

[sửa | sửa mã nguồn]

Sau Nội chiến, quyền công dân của những cựu nô lệ là một vấn đề được tranh luận sôi nổi trong Liên bang. Grant ủng hộ các kế hoạch Tái thiết của đảng viên Đảng Cộng hòa cấp tiến trong Quốc hội, vốn theo tinh thần của Tu chính án thứ 14, cung cấp đầy đủ quyền công dân cho những cựu nô lệ, trong đó bao gồm cả quyền bầu cử. Cương lĩnh của Đảng Dân chủ đã hạ thấp các quyền này và bôi nhọ nó là "quyền thượng đẳng của người da đen" và yêu cầu khôi phục quyền của các bang, trong đó có quyền của các bang miền Nam tự quyết định xem có cho phép cựu nô lệ bỏ phiếu hay không. Các bang thuộc Liên minh miền Nam trước đây đã quyết tâm hạn chế quyền công dân của những cựu nô lệ nhằm ủng hộ ứng cử viên Đảng Dân chủ.

Đề cử

[sửa | sửa mã nguồn]

Đề cử của Đảng Cộng hòa

[sửa | sửa mã nguồn]
Áp phích chiến dịch tranh cử của liên danh Grant/Colfax
Đề cử của Đảng Cộng hòa năm 1868
Ulysses S. Grant Schuyler Colfax
cho Tổng thống cho Phó Tổng thống
Tướng tư lệnh Lục quân Hoa Kỳ
thứ 6
(1864–1869)
Chủ tịch Hạ viện
thứ 25
small>(1863–1869)

Năm 1868, Đảng Cộng hòa đã cảm thấy đủ nổi tiếng để không dùng tên Đảng Liên minh Quốc gia nữa, họ muốn đề cử một anh hùng nổi tiếng cho vị trí tổng thống. Tướng Ulysses S. Grant vốn tự tuyên bố bản thân là đảng viên Cộng hòa và do đó được nhất trí đề cử trong lần bỏ phiếu đầu tiên với tư cách là ứng cử viên Tổng thống của đảng tại đại hội đảng Cộng hòa ở Chicago, được tổ chức từ ngày 20 đến 21 tháng 5 năm 1868. Chủ tịch Hạ viện Schuyler Colfax, một đảng viên Đảng Cộng hòa cấp tiến từ Indiana, đã được đề cử làm Phó Tổng thống trong lần bỏ phiếu thứ sáu, đánh bại Thượng nghị sĩ Benjamin Wade từ Ohio.

Cương lĩnh của Đảng Cộng hòa ủng hộ quyền đi bầu cử của người da đen như một lời hứa theo tinh thần của Tu chính án thứ 14 rằng những cựu nô lệ có đầy đủ quyền công dân. Họ phản đối việc sử dụng đồng bạc xanh để mua lại trái phiếu Hoa Kỳ, khuyến khích nhập cư, tán thành các quyền đầy đủ cho công dân nhập tịch và ủng hộ Tái thiết khác với các chính sách khoan dung hơn của Tổng thống Andrew Johnson.[3]

Đề cử của Đảng Dân chủ

[sửa | sửa mã nguồn]
Áp phích chiến dịch tranh cử của liên danh Seymour/Blair
Đề cử của Đảng Dân chủ năm 1868
Horatio Seymour Francis Preston Blair Jr.
cho Tổng thống cho Phó Tổng thống
Thống đốc New York
thứ 18
(1853–1854 & 1863–1864)
Dân biểu Hoa Kỳ
từ khu 1, Missouri
(1857–1859, 1860, 1861–1862, & 1863–1864)
Chiến dịch
Andrew Johnson, tổng thống đương nhiệm vào năm 1868, người sẽ hết nhiệm kỳ vào ngày 4 tháng 3 năm 1869
Các ứng cử viên Đảng Dân chủ

Đại hội toàn quốc Đảng Dân chủ được tổ chức tại thành phố New York từ ngày 4 đến ngày 9 tháng 7 năm 1868. Người dẫn đầu trong những cuộc bỏ phiếu đầu là George H. Pendleton (ứng cử viên Phó Tổng thống của đảng Dân chủ năm 1864), người đã dẫn đầu trong 15 lần bỏ phiếu đầu tiên, theo sau là Tổng thống Johnson, Winfield Scott Hancock, Sanford Church, Asa Packer, Joel Parker, James E. English, James Rood Doolittle, và Thomas A. Hendricks. Johnson vốn không được ưa chuộng, trước đó đã may mắn giữ được vị trí của mình sau cuộc luận tội, chỉ giành được 65 phiếu bầu trong lần bỏ phiếu đầu tiên, ít hơn một phần ba tổng số phiếu bầu cần thiết để được đề cử, và do đó đã thua cuộc bầu cử tổng thống ngay từ vòng sơ bộ.

Trong khi đó, chủ tịch Đại hội Horatio Seymour, cựu thống đốc New York, nhận được 9 phiếu trong lần bỏ phiếu thứ tư từ North Carolina. Động thái bất ngờ này đã tạo nên "sự cổ vũ lớn và nhiệt tình" cho ông, nhưng Seymour ban đầu từ chối.

Đến lần bỏ phiếu thứ 7, Pendleton và Hendricks đã nổi lên như hai ứng cử viên dẫn đầu, với Hancock là ứng cử viên duy nhất khác nhận được nhiều sự ủng hộ. Sau nhiều lần bỏ phiếu, John T. Hoffman, Francis P. BlairStephen Johnson Field đã lần lượt được xướng tên, nhưng không ứng cử viên nào trong số này nhận được sự ủng hộ đáng kể.

Trong suốt 21 lần bỏ phiếu, các ứng cử viên đã xâu xé lẫn nhau qua nhiều vấn đề: người miền Đông thì cạnh tranh với miền Tây, những người bảo thủ thì cạnh tranh với những người cấp tiến. Sự ủng hộ dành cho Pendleton đã chấm dứt sau lần bỏ phiếu thứ 15, nhưng số phiếu ủng hộ nghiêng về Hancock chứ không phải Hendricks, khiến đại hội càng rơi vào bế tắc. Họ đã xác định rằng bản thân họ chắc chắn sẽ không được đề cử tổng thống; vì họ cần đạt 2/3 số phiếu của đại hội, do đó, một ứng cử viên thỏa hiệp cần được tìm ra thay vì đề cử 2 người trên. Seymour vẫn hy vọng người đó sẽ là Chánh án Salmon P. Chase, nhưng trong lần bỏ phiếu thứ 22, trưởng phái đoàn Ohio tuyên bố ủng hộ Seymour làm ứng cử viên của đảng. Trong khoảnh khắc đó, Seymour phải chờ cho những tiếng reo hò lắng xuống trước khi ông có thể từ chới đề nghị này. Dẫu đã từ chối, ông vẫn được các đại biểu ủng hộ cho vị trí ứng cử viên. Lặp lại lời từ chối, Seymour định rời sân khấu để nghỉ ngơi. Ông vừa rời khỏi hội trường thì trưởng phái đoàn Ohio hét lên rằng phái đoàn của ông sẽ không chấp nhận lời từ chối của Seymour; trưởng phái đoàn của Utah cũng đứng lên và nói rằng Seymour là người mà họ cần tìm. Trong khi Seymour đang vắng mặt ở phòng họp, đại hội đã nhất trí đề cử ông làm tổng thống.

Quá mệt mỏi với vị trí Tổng thống, các đại biểu đã nhất trí đề cử Tướng Francis Preston Blair, Jr. làm Phó Tổng thống trong lần bỏ phiếu đầu tiên sau khi John A. McClernand, Augustus C. DodgeThomas Ewing, Jr., rút lui. Việc đề cử Blair là cách để cân bằng vùng miền trong liên danh tranh cử của đảng.[4]

Tổng tuyển cử

[sửa | sửa mã nguồn]

Chiến dịch

[sửa | sửa mã nguồn]
Áp phích chiến dịch của Đảng Cộng hòa.

Chiến dịch năm 1868 của cả Horatio Seymour và Ulysses S. Grant đều được tiến hành rất sôi nổi, phần lớn tranh cãi về vấn đề Tái thiết nên được tiến hành như thế nào.

Chiến dịch của Seymour ghi dấu ấn bằng những lời kêu gọi phân biệt chủng tộc rõ ràng với nhiều lần cố gắng gán cho Tướng Grant là ứng cử viên của "người da đen" và Seymour là ứng cử viên của "người da trắng".[5] Quân lệnh bài Do Thái do Grant ban hành trong Nội chiến là một vấn đề của toàn chiến dịch. Ông đã buộc phải lên tiếng xin lỗi trong một lá thư về quân lệnh gây tranh cãi của mình, giải thích rằng bản thân ông không ủng hộ quân lệnh đó dù đích thân ông là người ban hành. Trên thực tế, trong những ngày còn tại ngũ, ông đã có lần ghé thăm một cửa hàng địa phương do hai anh em nhà Seligman, những thương gia người Do Thái, làm chủ. Họ sau này đã trở thành những người bạn trong suốt cuộc đời Grant. Họ dần trở nên giàu có và là những người đã quyên góp rất nhiều cho chiến dịch tranh cử tổng thống của Grant.[6]

Một thẻ chiến dịch của Grant/Colfax

Grant không tham gia tích cực vào chiến dịch của mình và không hứa hẹn điều gì. Nhưng đảng Cộng hòa đã trích dẫn câu "Hãy để chúng ta có hòa bình" từ lá thư chấp nhận đề cử của ông làm châm ngôn và lời hứa với cử tri suốt cuộc bầu cử. Sau 4 năm Nội chiến đẫm máu, 3 năm tranh cãi về Tái thiết và nỗ lực luận tội một Tổng thống, dân chúng đã khao khát từ lâu một quốc gia hòa bình mà Grant và đảng Cộng hòa cam kết sẽ gây dựng khi lên nắm quyền.

Ảnh chiến dịch của Seymour/Blair

Seymour không phản hồi bất kỳ cáo buộc giả mạo nào chống lại ông, nhưng đã có một số bài phát biểu quan trọng. Một số tờ báo đã hiểu nhầm những việc làm của ông. Với tư cách là thống đốc, Seymour đã từng gửi quân viện trợ Liên bang tới Trận Gettysburg, nhưng một số tờ báo đã cố gắng miêu tả ông là một người không trung thành với Liên bang. Tờ New York Tribune đăng những bức ảnh châm biếm mô tả Seymour đứng trên bậc thềm của Tòa Thị chính và gọi đám đông những kẻ nổi dậy ở New York là "các bạn của tôi". Hartford Post miêu tả ông là "gần giống với một xác chết" giống như cựu Tổng thống James Buchanan vừa qua đời. Ngoài ra, các đảng viên Cộng hòa cáo buộc rằng gia đình Seymour bị tâm thần, lấy bằng chứng với việc cha ông tự sát.

Blair đã bắt đầu diễn thuyết trên toàn quốc, ở đó ông sử dụng rất nhiều thuật ngữ phân biệt chủng tộc, thậm chí hạ nhục người da đen bằng nhiều lời lẽ ghê tởm. Vì đó, đảng Cộng hòa kêu gọi người Mỹ không bỏ phiếu cho Seymour, vì Seymour vốn không muốn làm Tổng thống nên nhiều khả năng khi đắc cử, ông sẽ từ chức và Blair sẽ kế vị ông.[7]

Blair nổi tiếng là người thẳng thắn và các bài phát biểu trong chiến dịch tranh cử của ông vào năm 1868 đã tấn công nhiều đảng viên Đảng Cộng hòa Cấp tiến. [8] Samuel J. Tilden, một thành viên của Ủy ban toàn quốc Đảng Dân chủ, đã yêu cầu Blair hạn chế vận động tranh cử ở Missouri và Illinois vì sợ rằng ông ấy sẽ phá hỏng những nỗ lực của Đảng Dân chủ trong cuộc bầu cử.[9]

Seymour, người không đóng vai trò tích cực trong chiến dịch cho đến thời điểm đó, đã tham gia vận động, tìm cách lái chiến dịch khỏi các bài phát biểu của Blair. Seymour nhấn mạnh rằng những thay đổi ở miền Nam nên được thực hiện ở cấp tiểu bang, không có sự can thiệp của Liên bang. Đảng Dân chủ đã vận động để tái kết nạp ngay lập tức tất cả các bang từng ly khai, cấp cho họ quyền bầu cử ở các bang và ân xá những hành vi phạm pháp trong thời Nội chiến.[10] Ông cũng nhấn mạnh rằng Tổng thống và Tòa án Tối cao nên được tôn trọng hơn là bị tấn công, như ông tuyên bố Đảng Cộng hòa đã làm trong nhiệm kỳ của Johnson.[11]

Kết quả

[sửa | sửa mã nguồn]

Horatio Seymour giành được 2.708.744 phiếu bầu trong khi Grant nhận được 3.013.650 phiếu.

Sự sít sao trong số phiếu phổ thông đã gây ngạc nhiên cho giới tinh hoa chính trị vào thời điểm đó.[12] Dân biểu Đảng Cộng hòa James G. Blaine cho rằng đa số mong manh mà Grant giành được là "một sự thật rất đáng kinh ngạc."[13] Ngay cả Blaine cũng thể giải thích được vì sao Đảng Dân chủ lại giành được nhiều phiếu bầu như vậy.[14] Dù cách biệt số phiếu phổ thông rất hẹp, Seymour đã để mất toàn bộ số phiếu đại cử tri tại một số bang miền Bắc như Indiana, Connecticut và Pennsylvania. Nhiều người nghi ngờ những người da trắng bị tước quyền bầu cử ở miền Nam đã lén lút đi bầu cho Seymour dù không có bằng chứng cụ thể.[15]

Đảng Dân chủ để thua ở hầu hết bang miền Nam, nơi những người Mỹ gốc Phi mới được trả tự do đã bỏ phiếu ủng hộ Grant với số lượng rất lớn. Đảng Cộng hòa thắng mọi bang miền Nam ngoại trừ Georgia và Louisiana, nơi sự tàn bạo của Ku Klux Klan cũng như cái gọi là "Hiệp sĩ Da trắng Camelia" và gian lận bầu cử đã mang lại chiến thắng cho đảng Dân chủ.[16]

Đảng Dân chủ thắng áp đảo ở các bang vùng biên như Kentucky, Maryland và Delaware, với Kentucky thì người dân căm ghét những người theo chủ nghĩa Tái thiết Cấp tiến Cực đoan, điều này đã dẫn đến chính quyền đầu tiên sau Nội chiến của bang gần như hoàn toàn bao gồm các thành viên Liên minh cũ.[17] Không có ứng cử viên tổng thống nào của Đảng Dân chủ trước hoặc sau đó đạt được tỷ lệ ủng hộ cao như vậy ở Kentucky [18] hay Maryland, [19] nơi người dân căm ghét quyền bầu cử của người da đen.[20] Đối với Delaware, [21] đảng Dân chủ chỉ có liên danh Johnson/Humphrey năm 1964 và liên danh Obama/Biden năm 2008 có tỷ lệ ủng hộ cao hơn.

Hai bang vùng biên, Missouri và Tây Virginia, đều mang về chiến thắng cho Đảng Cộng hòa.[22] Seymour đã thắng ở bang New York quê hương của mình một cách sít sao, nhưng Blair lại bị tẩy chay tuyệt đối tại Missouri quê hương ông. Đảng viên Đảng Dân chủ Missouri vui mừng chế giễu ông rằng: "Tướng Blair bị tẩy chay tại phường của ông ấy, thành phố của ông ấy, quận của ông ấy và bang của ông ấy."[23] Ở Tây Virginia, những người theo Liên minh miền Nam trước đây tạm thời bị cấm bỏ phiếu hoặc giữ các chức vụ công. Kết quả là khoảng 15.000 đến 25.000 cư dân da trắng đã bị tước quyền.[24]

Trong số 1.708 quận tái gia nhập, Grant giành được 991 (58,02%) và Seymour 713 (41,74%). Bốn quận (0,23%) chia đều cho Grant và Seymour. Do đó, Đảng Dân chủ, ngay cả khi phải gánh chịu mọi tai tiếng của chiến tranh, chỉ chiếm được ít hơn 278 quận so với Đảng Cộng hòa. Điều đó đã giúp củng cố sự nổi tiếng của đảng ở cấp cơ sở trong các cuộc bầu cử địa phương năm 1867.[25]

Cuộc bầu cử năm 1868 là cuộc bầu cử duy nhất kể từ Nội chiến mà hai ứng cử viên của đảng lớn cùng nhau giành được hơn 99,9% số phiếu bầu trên cả nước.[26] Trong tổng số hơn 5,7 triệu phiếu bầu, chỉ có 46 phiếu bầu cho người "khác" mà không phải Grant hay Seymour.[27]

Đây là cuộc bầu cử cuối cùng mà Đảng Cộng hòa thắng ở Tennessee cho đến năm 1920, cuộc bầu cử cuối cùng Đảng Dân chủ thắng ở Oregon cho đến năm 1912, và cuộc bầu cử cuối cùng Đảng Cộng hòa thắng Missouri cho đến năm 1904.

Việc Grant thua Seymour ở New York với cách biệt 10.000 phiếu bầu là nguồn gốc khiến các đảng viên Cộng hòa xấu hổ và tức giận. Chiến thắng của Seymour ở New York đã dẫn đến một cuộc điều tra liên bang. Vào ngày 4 tháng 11, Horace Greeley phát biểu tại Union League Club và sau đó ULC đã nhanh chóng kiến nghị Quốc hội xem xét đièu tra cuộc bỏ phiếu của bang. Bản kiến nghị đã được trình lên Hạ viện vào ngày 14 tháng 12 và được chấp thuận với tỷ lệ số phiếu 134-35 (52 phiếu trắng). Chủ tịch Hạ viện Schuyler Colfax, ứng cử viên Phó Tổng thống của Đảng Cộng hòa, đã chỉ định một ủy ban gồm 7 người: 5 thành viên Đảng Cộng hòa và 2 thành viên Đảng Dân chủ. Ủy ban được thành lập được cho là vì Đảng Cộng hòa vẫn cho rằng mình không thể để mất New York mà không có bất kỳ sự phản đối nào. Cuộc điều tra được báo cáo lên Hạ viện vào ngày 23 tháng 2 năm 1869.[28] Ủy ban quyết định không thực hiện bất kỳ điều tra nào và Seymour đã giữ được 33 phiếu đại cử tri từ New York.[29]

Theo người viết tiểu sử của Seymour, Stewart Mitchell, Đảng Cộng hòa đã tuyên bố có công trong việc cứu Liên bang và quyết tâm tiếp tục cai trị nó.[30] Tỷ lệ đa số phổ thông của Grant phần lớn đến từ tỷ lệ ủng hộ cao trong số nửa triệu người đàn ông hoặc người da màu mới được trao quyền.[31] Chiến lược này tương phản mạnh mẽ với những năm sau đó, khi các đảng viên Cộng hòa khổng thể ngăn chặn việc tước quyền bầu cử của người da đen ở các bang thuộc Liên minh miền Nam trước đây, vì họ có nhiều phiếu bầu mới và an toàn hơn ở các bang mới ở miền Tây Hoa Kỳ.[32]

Phiếu Phổ thông
Grant
  
52.66%
Seymour
  
47.34%
Khác
  
0.00%
Phiếu Đại cử tri
Grant
  
72.79%
Seymour
  
27.21%

Kết quả Bầu cử
Ứng cử viên Tổng thống Đảng Bang nhà Phiếu Phổ thông(a) Phiếu Đại cử tri (a) Đồng tranh cử
Số phiếu % Ứng cử viên Phó Tổng thống Bang nhà Phiếu Đại cử tri (a)
Ulysses S. Grant Cộng hòa Illinois 3.013.650 52,66% 214 Schuyler Colfax Jr. Indiana 214
Horatio Seymour Dân chủ New York 2.708.744 47,34% 80 Francis Preston Blair Jr. Missouri 80
Khác 46 <0,01% Khác
Tổng cộng 5.722.440 100% 294 294
Cần thiết để giành chiến thắng 148 148

(a)Mississippi, TexasVirginia không tham gia cuộc bầu cử năm 1868 do chưa tái gia nhập Liên bang. Tại Florida, cơ quan lập pháp của bang đã bỏ phiếu đại cử tri cho Grant với tỷ lệ phiếu 40-9.

Thư viện kết quả

[sửa | sửa mã nguồn]

Kết quả theo bản đồ

[sửa | sửa mã nguồn]

Kết quả theo bang

[sửa | sửa mã nguồn]

Nguồn: Dữ liệu từ Walter Dean Burnham, Presidential phiếu, 1836–1892 (Johns Hopkins University Press, 1955) trang 247–57.[33]

Bang/Quận thắng bởi Seymour/Blair
Bang/Quận thắng bởi Grant/Colfax
Ulysses S. Grant
Cộng hòa
Horatio Seymour
Dân chủ
Cách biệt Tổng cộng
State phiếu đại
cử tri
# % phiếu đại
cử tri
# % phiếu đại
cử tri
# % #
Alabama 8 76,667 51.25 8 72,921 48.75 - 3,746 2.50 149,594 AL
Arkansas 5 22,112 53.68 5 19,078 46.32 - 3,034 7.36 41,190 AR
California 5 54,588 50.24 5 54,068 49.76 - 520 0.48 108,656 CA
Connecticut 6 50,788 51.49 6 47,844 48.51 - 2,944 2.98 98,632 CT
Delaware 3 7,614 41.00 - 10,957 59.00 3 -3,343 -18.00 18,571 DE
Florida 3 - - 3[note 1] - - - - - - FL
Georgia 9 57,109 35.73 - 102,707 64.27 9 -45,598 -28.54 159,816 GA
Illinois 16 250,304 55.69 16 199,116 44.31 - 51,188 11.38 449,420 IL
Indiana 13 176,552 51.39 13 166,980 48.61 - 9,572 2.78 343,532 IN
Iowa 8 120,399 61.92 8 74,040 38.08 - 46,359 23.84 194,439 IA
Kansas 3 30,027 68.82 3 13,600 31.17 - 16,427 37.65 43,630 KS
Kentucky 11 39,566 25.45 - 115,889 74.55 11 -76,323 -49.10 155,455 KY
Louisiana 7 33,263 29.31 - 80,225 70.69 7 -46,962 -41.38 113,488 LA
Maine 7 70,502 62.41 7 42,460 37.59 - 28,042 24.82 112,962 ME
Maryland 7 30,438 32.80 - 62,357 67.20 7 -31,919 -34.40 92,795 MD
Massachusetts 12 136,379 69.76 12 59,103 30.23 - 77,276 39.53 195,508 MA
Michigan 8 128,560 56.98 8 97,060 43.02 - 31,500 13.96 225,620 MI
Minnesota 4 43,722 60.88 4 28,096 39.12 - 15,626 21.76 71,818 MN
Missouri 11 86,860 56.96 11 65,628 43.04 - 21,232 13.92 152,488 MO
Nebraska 3 9,772 63.91 3 5,519 36.09 - 4,253 27.82 15,291 NE
Nevada 3 6,480 55.39 3 5,218 44.61 - 1,262 10.78 11,698 NV
New Hampshire 5 37,718 55.22 5 30,575 44.76 - 7,143 10.46 68,304 NH
New Jersey 7 80,131 49.12 - 83,001 50.88 7 -2,870 -1.76 163,132 NJ
New York 33 419,888 49.41 - 429,883 50.59 33 -9,995 -1.18 849,771 NY
North Carolina 9 96,939 53.41 9 84,559 46.59 - 12,380 6.82 181,498 NC
Ohio 21 280,167 54.00 21 238,621 46.00 - 41,546 8.00 518,788 OH
Oregon 3 10,961 49.63 - 11,125 50.37 3 -164 -0.74 22,086 OR
Pennsylvania 26 342,280 52.20 26 313,382 47.80 - 28,898 4.40 655,662 PA
Rhode Island 4 12,993 66.49 4 6,548 33.51 - 6,445 32.98 19,541 RI
South Carolina 6 62,301 57.93 6 45,237 42.07 - 17,064 15.86 107,538 SC
Tennessee 10 56,628 68.43 10 26,129 31.57 - 30,499 36.86 82,757 TN
Vermont 5 44,167 78.57 5 12,045 21.43 - 32,122 57.14 56,212 VT
West Virginia 5 29,015 58.83 5 20,306 41.17 - 8,709 17.66 49,321 WV
Wisconsin 8 108,900 56.25 8 84,703 43.75 - 24,197 12.50 193,603 WI
TỔNG CỘNG: 294 3,013,790 52.66 214 2,708,980 47.34 80 304,810 5.32 5,722,440 US

Tiểu bang sít sao

[sửa | sửa mã nguồn]

Màu đỏ biểu thị bang đảng viên Cộng hòa Ulysses S. Grant thắng; Xanh biểu thị bang đảng viên Dân chủ Horatio Seymour thắng.

Các bang có tỷ lệ chiến thắng dưới 1% (8 phiếu đại cử tri)

  1. California 0.48% (520 phiếu)
  2. Oregon 0.74% (164 phiếu)

Các bang có tỷ lệ chiến thắng dưới 5% (93 phiếu đại cử tri)

  1. New York 1.18% (9,995 phiếu)
  2. New Jersey 1.76% (2,870 phiếu)
  3. Alabama 2.50% (3,746 phiếu)
  4. Indiana 2.79% (9,572 phiếu)
  5. Connecticut 2.98% (2,944 phiếu)
  6. Pennsylvania 4.41% (28,898 phiếu)

Các bang có tỷ lệ thắng dưới 10% (35 phiếu đại cử tri)

  1. North Carolina 6.82% (12,380 phiếu)
  2. Arkansas 7.37% (3,034 phiếu)
  3. Ohio 8.01% (41,546 phiếu)

Thống kê

[sửa | sửa mã nguồn]

Các quận có tỷ lệ phiếu bầu cao nhất (cho Đảng Cộng hòa)

  1. Quận Hancock, Tennessee (bài viết) 100.00%
  2. Quận Monona, Iowa (bài viết) 100.00%
  3. Quận Ottawa, Kansas (bài viết) 100.00%
  4. Quận Jefferson, Nebraska (bài viết) 100.00%
  5. Quận McDowell, West Virginia (bài viết) 100.00%

Các quận có tỷ lệ phiếu bầu cao nhất (cho Đảng Dân chủ)

  1. Quận St. Landry, Louisiana (bài viết) 100.00%
  2. Quận Lafayette, Louisiana (bài viết) 100.00%
  3. Quận Jackson, Louisiana (bài viết) 100.00%
  4. Quận De Soto, Louisiana (bài viết) 100.00%
  5. Quận Franklin, Louisiana (bài viết) 100.00%

Các quận có tỷ lệ phiếu bầu cao nhất (cho ứng cử viên Khác)

  1. Quận DeKalb, Alabama (bài viết) 0.70%
  2. Quận Sullivan, New Hampshire (bài viết) 0.11%
  3. Quận Strafford, New Hampshire (bài viết) 0.09%
  4. Quận Carroll, New Hampshire (bài viết) 0.02%

Tham khảo

[sửa | sửa mã nguồn]
  1. ^ “National General Election VEP Turnout Rates, 1789-Present”. United States Election Project. CQ Press.
  2. ^ Tali Mendelberg (2001), The Race Card: Campaign Strategy, Implicit Messages, and the Norm of Equality, Princeton University Press, pg. 45-46
  3. ^ William DeGregorio, The Complete Book of U.S. Presidents, Gramercy, 1997
  4. ^ William E. Parrish (1998), Frank Blair: Lincoln's Conservative, Missouri Biography Series, University of Missouri Press, pg. 254
  5. ^ NY Public Library, Schomberg Collection, badge produced in 1868, digitized 2013
  6. ^ Jonathan D. Sarna (2012). When General Grant Expelled the Jews. tr. 62. ISBN 9780805212334.
  7. ^ Stewart Mitchell, Horatio Seymour of New York, Harvard University Press, 1938, pg. 23
  8. ^ Mitchell (1938), Horatio Seymour, pp. 448-449
  9. ^ William E. Parrish, Frank Blair: Lincoln's Conservative, p. 255–256
  10. ^ Henry, Robert Selph; The Story of Reconstuction; p. 330-332 ISBN 9781568522548
  11. ^ William E. Parrish, Frank Blair: Lincoln's Conservative, pg. 258–259
  12. ^ Irving Stone (1943), They Also Ran, pg. 282
  13. ^ Stewart Mitchell, Horatio Seymour of New York, pg. 483
  14. ^ Mitchell, Horatio Seymour of New York, pg. 443
  15. ^ Mitchell, Horatio Seymour of New York, pg. 474
  16. ^ Leonard, Elizabeth D.; Lincoln's Avengers: Justice, Revenge and Reunion after the Civil War, p. 286 ISBN 0393048683
  17. ^ Henry; The Story of Reconstruction, pp. 250-253
  18. ^ Counting the Votes; Kentucky Lưu trữ tháng 11 20, 2017 tại Wayback Machine
  19. ^ Counting the Votes; Maryland Lưu trữ tháng 11 7, 2017 tại Wayback Machine
  20. ^ Bergeron, Paul H.; Andrew Johnson's Civil War and Reconstruction; pp. 105-111 ISBN 1572337486
  21. ^ Counting the Votes; Delaware Lưu trữ tháng 11 11, 2017 tại Wayback Machine
  22. ^ Henry; The Story of Reconstruction; p.
  23. ^ Frank Blair: Lincoln's Conservative, William E. Parrish, pg. 259-260
  24. ^ "A Brief History of African Americans in West Virginia," West Virginia Culture “African-Americans in West Virginia”. Bản gốc lưu trữ ngày 31 tháng 12 năm 2013. Truy cập ngày 7 tháng 12 năm 2015.
  25. ^ Bergeron; Andrew Johnson's Civil War and Reconstruction; pp. 175-177
  26. ^ Kondik, Kyle; Coleman, J. Miles (12 tháng 11 năm 2020). “Notes on the State of the 2020 Election”. University of Virginia.
  27. ^ “1868 Presidential General Election Results”. Dave Leip's Atlas of U.S. Presidential Elections.
  28. ^ Horatio Seymour of New York, Stewart Mitchell, pg. 474-475
  29. ^ Stewart Mitchell, Horatio Seymour of New York, pg. 483
  30. ^ Horatio Seymour of New York, Stewart Mitchell, pg. 484
  31. ^ Henry, The Story of Reconstruction; pp. 345-346
  32. ^ Valelly, Richard M.; The Two Reconstructions: The Struggle for Black Enfranchisement University of Chicago Press, 2009, pp. 134-139 ISBN 9780226845302
  33. ^ “1868 Presidential General Election Data – National”. Truy cập ngày 7 tháng 5 năm 2013.
  1. ^ Do tình trạng Tái thiết, không có cuộc bầu cử nào được tổ chức; ba phiếu đại cử tri đã được Cơ quan Lập pháp bang Florida bỏ phiếu cho Grant.

Tài liệu tham khảo

[sửa | sửa mã nguồn]
  • American Annual Cyclopedia ... 1868 (1869), online, highly detailed compendium of facts and primary sources
  • Coleman, Charles Hubert. The election of 1868 : the Democratic effort to regain control (1933) online
  • Gambill, Edward. Conservative Ordeal: Northern Democrats and Reconstruction, 1865-1868. (Iowa State University Press: 1981).
  • Henry, Robert Selph. The Story of Reconstruction (1938)
  • Prymak, Andrew. "The 1868 and 1872 Elections," in Edward O. Frantz, ed. A Companion to the Reconstruction Presidents 1865-1881 (Wiley Blackwell Companions to American History) (2014) pp 235–56 online
  • Rhodes, James G. History of the United States from the Compromise of 1850 to the McKinley-Bryan Campaign of 1896. Volume: 6. (1920). 1865–72; detailed narrative history
  • Simpson, Brooks D. Let Us Have Peace: Ulysses S. Grant and the Politics of War and Reconstruction, 1861-1868 (1991).
  • Summers, Mark Wahlgren.The Press Gang: Newspapers and Politics, 1865-1878 (1994)
  • Summers, Mark Wahlgren. The Era of Good Stealings (1993), covers corruption 1868-1877

Nguồn chính

[sửa | sửa mã nguồn]

Liên kết ngoài

[sửa | sửa mã nguồn]