Bước tới nội dung

Bầu cử tổng thống Hoa Kỳ 1864

Bách khoa toàn thư mở Wikipedia
Bầu cử tổng thống Hoa Kỳ 1864

← 1860 8 tháng 11 1864 1868 →

234 thành viên[a] (+17 không hợp lệ)[b] của Đại cử tri
118 phiếu để đắc cử
Số người đi bầu73.8%[3] Giảm 7.4 pp
 
Đề cử Abraham Lincoln George B. McClellan
Đảng Liên minh Quốc gia Dân chủ
Quê nhà Illinois New Jersey
Đồng ứng cử Andrew Johnson George H. Pendleton
Phiếu đại cử tri 212[a] (+17 không hợp lệ)[b] 21
Tiểu bang giành được 22 (+2 không hợp lệ)[b] 3
Phiếu phổ thông  2,218,388 1,812,807
Tỉ lệ 55.0% 45.0%

Bản đồ hiển thị kết quả bầu cử. Đỏ biểu thị các bang Lincoln/Johnson thắng, Xanh biểu thị các bang McClellan/Pendleton thắng, và Nâu biểu thị các bang Liên minh Miền Nam không bỏ phiếu. Mặc dù các bang LouisianaTennessee, vốn vừa giành được từ tay Liên minh Miền Nam, có tổ chức bầu cử; tuy nhiên, không phiếu đại cử tri nào được tính.[2] Một trong những đại cử tri của Nevada vì lý do tuyết rơi dày đặc mà không thể bỏ lá phiếu bầu Tổng thống hoặc Phó Tổng thống.[1] Các con số cho biết số phiếu đại cử tri được phân bổ cho mỗi tiểu bang.

Tổng thống trước bầu cử

Abraham Lincoln
Cộng hòa

Tổng thống được bầu

Abraham Lincoln
Liên minh Quốc gia

Cuộc bầu cử tổng thống Hoa Kỳ năm 1864cuộc bầu cử tổng thống bốn năm một lần lần thứ 20, được tổ chức vào thứ Ba, ngày 8 tháng 11 năm 1864. Diễn ra vào lúc Nội chiến Hoa Kỳ sắp kết thúc, Tổng thống đương nhiệm Abraham Lincoln của Đảng Liên minh Quốc gia đã dễ dàng đánh bại ứng cử viên Đảng Dân chủ, cựu Tướng George B. McClellan, với số phiếu cách biệt 212–21 trong đại cử tri đoàn, với 55% phiếu bầu phổ thông. Trước cuộc bầu cử, Đảng Cộng hòa và một số Đảng viên Dân chủ đã thành lập Đảng Liên minh Quốc gia, đặc biệt là để thu hút Đảng viên Đảng Dân chủ chủ chiến.

Bất chấp một số phản đối trong nội bộ đảng từ Salmon ChaseĐảng Cộng hòa Cấp tiến, Lincoln đã giành được đề cử của đảng mình tại Đại hội toàn quốc Đảng Liên minh Quốc gia năm 1864. Thay vì tái đề cử Phó Tổng thống đương nhiệm Hannibal Hamlin, đại hội đã chọn Andrew Johnson từ Tennessee, một Đảng viên Đảng Dân chủ chủ chiến, làm đồng tranh cử với Lincoln. John C. Frémont tranh cử với tư cách là ứng cử viên của Đảng Dân chủ Cấp tiến mới, đảng này đã chỉ trích Lincoln là quá ôn hòa trong vấn đề bình đẳng chủng tộc, nhưng Frémont đã rút khỏi cuộc đua vào tháng 9 và đảng mới đó đã giải thể. Đảng Dân chủ bị chia rẽ giữa các "Copperhead" (tức đảng viên chủ hòa, ủng hộ các giải pháp hòa bình ngay lập tức với Liên minh miền Nam), và đảng viên chủ chiến (ủng hộ chiến tranh). Đại hội toàn quốc Đảng Dân chủ năm 1864 đã đề cử McClellan, một đảng viên chủ chiến, nhưng lại thông qua cương lĩnh ủng hộ hòa bình với Liên minh miền Nam, mà McClellan đã bác bỏ. Liên minh miền Nam vẫn có khả năng tồn tại vào mùa hè năm 1864, thời điểm đề cử, nhưng rõ ràng đã chắc chắn sụp đổ vào ngày bầu cử tháng 11.

Bất chấp những lo ngại sớm về một thất bại, Lincoln đã giành được đa số phiếu phổ thông và đại cử tri, một phần là kết quả của những chiến thắng gần đây của Liên bang trong Trận Atlanta.[4] Khi Nội chiến vẫn đang diễn ra, không có phiếu đại cử tri nào được tính từ bất kỳ bang nào trong số mười một bang miền nam đã gia nhập Liên minh miền Nam Hoa Kỳ.[2] Việc Lincoln tái đắc cử đảm bảo rằng ông sẽ tại vị cho đến thời điểm kết thúc Nội chiến với chiến thắng cho Liên bang.

Chiến thắng của Lincoln khiến ông trở thành tổng thống đầu tiên tái đắc cử kể từ Andrew Jackson năm 1832, đồng thời là tổng thống miền Bắc đầu tiên từng tái đắc cử. Lincoln bị ám sát chưa đầy hai tháng sau khi nhậm chức nhiệm kỳ thứ hai của mình, và ông được kế nhiệm bởi Phó Tổng thống của mình, Andrew Johnson, người ủng hộ việc nhanh chóng khôi phục các tiểu bang ly khai tái gia nhập Liên bang hơn việc bảo vệ các nô lệ. Điều này dẫn đến xung đột với Quốc hội do Đảng Cộng hòa thống trị, đỉnh điểm là việc Hạ viện luận tội ông vào năm 1868. Ông được tha bổng tại Thượng viện với cách biệt chỉ một phiếu bầu.

Bối cảnh

[sửa | sửa mã nguồn]

Cuộc bầu cử tổng thống năm 1864 diễn ra trong Nội chiến Hoa Kỳ. Theo Trung tâm Công vụ Miller, cuộc bầu cử rất đáng chú ý vì đã diễn ra, một hoạt động dân chủ chưa từng có giữa một cuộc nội chiến, vì thông thường, trong thời gian chiến tranh, các cuộc bầu cử sẽ bị đình chỉ hoặc tạm hoãn nhằm tập trung nhân lực cho chiến trường.[5]

Một nhóm những người bất đồng chính kiến với Đảng Cộng hòa tự gọi mình là Đảng viên Cộng hòa Cấp tiến đã thành lập một đảng tên là Đảng Dân chủ Cấp tiến và đề cử John C. Frémont làm ứng cử viên tổng thống của họ. Frémont sau đó đã rút lui và ủng hộ Lincoln. Tại tiểu bang vùng biên, Đảng Dân chủ chủ chiến cùng với Đảng Cộng hòa thành lập Đảng Liên minh Quốc gia, với Lincoln là người đứng đầu.[6] Đảng Liên minh Quốc gia là một tên tạm thời được sử dụng để thu hút các Đảng viên Đảng Dân chủ chủ chiến và những người ủng hộ Liên bang tại các bang vùng biên vốn không bỏ phiếu cho Đảng Cộng hòa. Nó đối đầu với Đảng Dân chủ thường, bao gồm cả Đảng viên Đảng Dân chủ chủ hòa.

Đề cử

[sửa | sửa mã nguồn]

Các đại hội đề cử tổng thống năm 1864 của các đảng được liệt kê dưới đây theo thứ tự phổ thông đầu phiếu của đảng.

Đề cử của Đảng Liên minh Quốc gia

[sửa | sửa mã nguồn]
Đề cử của Đảng Liên minh Quốc gia năm 1864
Abraham Lincoln Andrew Johnson
cho Tổng thống cho Phó Tổng thống
Tổng thống Hoa Kỳ
thứ 16
(1861–1865)
Thống đốc Quân sự
của Tennessee
(1862–1865)

Các ứng cử viên Đảng Liên minh Quốc gia:

  • Abraham Lincoln, Tổng thống Hoa Kỳ
  • Ulysses S. Grant, Tư lệnh tác chiến từ Illinois

Thư viện ảnh các ứng cử viên tổng thống Đảng Liên minh Quốc gia

[sửa | sửa mã nguồn]

Thư viện ảnh các ứng cử viên phó tổng thống Đảng Liên minh Quốc gia

[sửa | sửa mã nguồn]

Chia rẽ ban đầu trong nội bộ Đảng Cộng hòa

[sửa | sửa mã nguồn]

Khi Nội chiến tiến triển, các ý kiến chính trị trong Đảng Cộng hòa bắt đầu khác nhau. Thượng nghị sĩ Charles SumnerHenry Wilson từ Massachusetts muốn Đảng Cộng hòa vận động sửa đổi hiến pháp để cấm chế độ nô lệ và đảm bảo quyền bình đẳng chủng tộc trước pháp luật. Ban đầu, không phải tất cả các đảng viên Cộng hòa miền bắc đều ủng hộ ý kiến này.

Các nhà lãnh đạo đảng Dân chủ hy vọng rằng các đảng viên Cộng hòa cấp tiến sẽ đè cử một liên minh tranh cử của riêng họ trong cuộc bầu cử. Tờ báo New York World, đặc biệt quan tâm đến việc chia rẽ Đảng Liên minh Quốc gia, đã đăng một loạt bài báo dự đoán rằng Đại hội Liên minh Quốc gia sẽ bị trì hoãn cho đến cuối năm 1864 để Frémont có thời gian tập hợp các đại biểu để giành được đề cử. Những người ủng hộ Frémont ở Thành phố New York đã thành lập một tờ báo có tên là New Nation và tuyên bố trong một trong những số báo ban đầu rằng Đại hội Liên minh Quốc gia là "phi thực tế". Tờ New York World cũng xuất bản nhiều thông tin sai lệch (được cho là do Samuel S. Cox viết) để làm hao mòn sự nổi tiếng của Lincoln.[7]

Đảng Liên minh Quốc gia

[sửa | sửa mã nguồn]
Áp phích chiến dịch của Lincoln và Johnson
"Chiến tranh bắt đầu như thế nào và nó sắp kết thúc ra sao" do Ủy ban Điều hành Đảng Liên minh Quốc gia xuất bản.

Trước cuộc bầu cử, một số Đảng viên Đảng Dân chủ chủ chiến đã cùng với Đảng Cộng hòa để thành lập Đảng Liên minh Quốc gia.[8] Với kết quả của cuộc Nội chiến vẫn còn đang bị nghi ngờ, một số nhà lãnh đạo chính trị, bao gồm Salmon P. Chase, Benjamin Wade, và Horace Greeley, đã phản đối tái đề cử Lincoln với lý do ông không thể giành chiến thắng cho Liên bang. Bản thân Chase đã trở thành ứng cử viên tích cực duy nhất phản đối Lincoln được tái đề cử, nhưng ông đã rút lui vào tháng 3 khi một loạt quan chức Đảng Cộng hòa, bao gồm một số người từ bang Ohio, những người mà chiến dịch tranh cử của Chase chắc chắn sẽ phụ thuộc vào, đã tán thành Lincoln được tái đề cử. Lincoln vẫn được lòng hầu hết các thành viên của Đảng Cộng hòa, và Đảng Liên minh Quốc gia đã đề cử ông cho nhiệm kỳ thứ hai làm tổng thống tại đại hội của họ ở Baltimore, Maryland từ ngày 7 đến ngày 8 tháng 6 năm 1864.[9] Cương lĩnh của đảng bao gồm các mục tiêu sau: "theo đuổi chiến tranh, cho đến khi Liên minh miền Nam đầu hàng vô điều kiện; sửa đổi hiến pháp để bãi bỏ chế độ nô lệ; viện trợ cho các cựu binh Liên bang bị tàn tật; tiếp tục giữ vững sự trung lập ở châu Âu; thực thi Học thuyết Monroe; khuyến khích nhập cư; và xây dựng của một tuyến đường sắt xuyên lục địa." Nó cũng ca ngợi việc những người lính da đen tham chiến cũng như cách đối phó cuộc chiến của Lincoln.[10]

Với việc Phó Tổng thống đương nhiệm Hannibal Hamlin vẫn thờ ơ với nhiệm kỳ thứ hai của mình, Andrew Johnson, cựu thượng nghị sĩ và hiện là thống đốc quân sự của Tennessee, được chọn làm Phó Tổng thống cho Lincoln. Ông từng là thống đốc bang Tennessee từ năm 1853 đến năm 1857 và được cơ quan lập pháp bang bầu vào Thượng viện năm 1857. Trong thời gian phục vụ tại quốc hội, ông đã tìm cách thông qua Dự luật Homestead được thông qua ngay sau khi ông rời Thượng viện vào năm 1862. Khi các bang nô lệ miền Nam, bao gồm cả Tennessee, ly khai, ông vẫn ủng hộ Liên bang. Ông là thượng nghị sĩ đương nhiệm duy nhất của một bang thuộc Liên minh miền Nam không từ chức khi hay tin bang của mình ly khai. Năm 1862, Lincoln bổ nhiệm ông làm thống đốc quân sự của Tennessee sau khi phần lớn nó đã được Liên bang tái chiếm từ tay Liên minh. Năm 1864, Johnson là một lựa chọn lý tưởng với tư cách là liên danh tranh cử với Lincoln, người muốn gửi thông điệp về sự đoàn kết dân tộc trong chiến dịch tái tranh cử của mình, đặc biệt là để đảm bảo số phiếu đại cử tri tại các bang vùng biên.

Những người khác từng được cân nhắc để đề cử bao gồm cựu Thượng nghị sĩ Daniel Dickinson, Thiếu tướng Benjamin Butler, Thiếu tướng William Rosecrans, Joseph Holt, và cựu Bộ trưởng Ngân khố kiêm Thượng nghị sĩ John Dix .

Đề cử của Đảng Dân chủ

[sửa | sửa mã nguồn]
Đề cử của Đảng Dân chủ năm 1864
George B. McClellan George H. Pendleton
cho Tổng thống cho Phó Tổng thống
Tướng tư lệnh Lục quân Hoa Kỳ
thứ 4
(1861–1862)
Dân biểu Hoa Kỳ
từ khu quốc hội 1, Ohio
(1857–1865)
Chiến dịch

Các ứng cử viên tổng thống của Đảng Dân chủ:

  • George B. McClellan, Tướng tư lệnh từ New Jersey
  • Thomas H. Seymour, Cựu Thống đốc Connecticut

Thư viện ảnh các ứng cử viên tổng thống Đảng Dân chủ

[sửa | sửa mã nguồn]

Thư viện ảnh các ứng cử viên phó tổng thống Đảng Dân chủ

[sửa | sửa mã nguồn]
Áp phích chiến dịch của McClellan và Pendleton

Đảng Dân chủ bị chia rẽ gay gắt giữa các đảng viên chủ chiến và chủ hòa, với phe chủ hòa thậm chí còn bị chia rẽ giữa nhiều phe phái khác. Các đảng viên chủ hòa ôn hòa, những người ủng hộ cuộc chiến chống lại Liên minh miền Nam, chẳng hạn như Horatio Seymour, vẫn cố gắng giảng giải về sự khôn ngoan của một nền hòa bình ngay lập tức. Sau chiến thắng của Liên bang trong Trận Gettysburg năm 1863, các đảng chủ hòa ôn hòa đã đề xuất một nền hòa bình được đàm phán để đảm bảo chiến thắng của Liên bang. Họ tin rằng đây là cách hành động tốt nhất, bởi vì một hiệp định đình chiến có thể kết thúc chiến tranh mà không tàn phá miền Nam.[11] Các đảng viên chủ hòa bình cấp tiến được gọi là Copperhead, chẳng hạn như Thomas H. Seymour, tuyên bố chiến tranh là một thất bại và ủng hộ việc chấm dứt ngay lập tức các hành động thù địch trong khi không đảm bảo chiến thắng của Liên bang.[12]

George B. McClellan tuyên bố tranh cử tổng thống. Ngoài ra, những người bạn của Horatio Seymour vẫn muốn đề cử ông trước đại hội, được tổ chức tại Chicago, Illinois, từ ngày 29 đến 31 tháng 8 năm 1864. Nhưng vài ngày trước đại hội, Horatio Seymour đã tuyên bố rằng ông sẽ không tham gia tranh cử.

Vì Đảng Dân chủ bị chia rẽ bởi các vấn đề chiến tranh và hòa bình, họ đã tìm kiếm một ứng cử viên mạnh mẽ có thể thống nhất đảng. Sau cùng, họ đạt được thỏa hiệp rằng đảng sẽ đề cử Tướng chủ chiến George B. McClellan làm Tổng thống và Dân biểu chủ hòa George H. Pendleton làm Phó Tổng thống. McClellan, một đảng viên chủ chiến, được đề cử làm Tổng thống thay vì Thomas H. Seymour của Copperhead. Pendleton, một cộng sự thân cận của thành viên Copperhead Clement Vallandigham, được đề cử vì ông được biết đến là người phản chiến mạnh mẽ.[13] Đại hội đã thông qua một cương lĩnh chủ hòa[14] – một cương lĩnh mà McClellan kịch liệt bác bỏ.[15] McClellan ủng hộ việc tiếp tục chiến tranh và khôi phục Liên bang, nhưng cương lĩnh của đảng, do Vallandigham soạn thảo, phản đối quan điểm này.

Đề cử của Đảng Dân chủ Cấp tiến

[sửa | sửa mã nguồn]
Áp phích chiến dịch của Frémont và Cochrane

Thư viện ảnh các ứng cử viên tổng thống Đảng Dân chủ Cấp tiến

[sửa | sửa mã nguồn]

Thư viện ảnh các ứng cử viên phó tổng thống Đảng Dân chủ Cấp tiến

[sửa | sửa mã nguồn]

Đại hội Đảng Dân chủ Cấp tiến được triệu tập tại Ohio vào ngày 29 tháng 5 năm 1864. Tờ New York Times đưa tin rằng hội trường mà ban tổ chức Đại hội dự định sử dụng đã được một đoàn opera đặt trước đó. Hầu như tất cả các đại biểu đều ủng hộ Frémont, với một ngoại lệ chính là phái đoàn New York, bao gồm các Đảng viên Đảng Dân chủ chủ chiến ủng hộ Ulysses S. Grant. Nhiều ước tính khác nhau về số lượng đại biểu đã được báo chí đưa tin; New York Times đưa tin có 156 đại biểu, nhưng con số thường được báo cáo ở những nơi khác là 350 đại biểu. Các đại biểu đến từ 15 tiểu bang và Đặc khu Columbia. Họ lấy tên là "Đảng Dân chủ Cấp tiến".[16]

Một người ủng hộ Grant sau đó được bầu làm Chủ tịch. Cương lĩnh được thông qua mà không có nhiều thảo luận, và một loạt nghị quyết làm cản trở quá trình tiến hành đại hội đã bị bỏ phiếu bác bỏ một cách dứt khoát. Đại hội đã đề cử Frémont làm Tổng thống, và ông chấp nhận đề cử vào ngày 4 tháng 6 năm 1864. Trong bức thư của mình, ông tuyên bố rằng ông sẽ rút lui nếu Đại hội Liên minh Quốc gia đề cử một người nào đó không phải Lincoln làm Tổng thống. John Cochrane được đề cử làm Phó Tổng thống.[17][18]

Tổng tuyển cử

[sửa | sửa mã nguồn]
Một tấm áp phích của Liên minh Quốc gia cảnh báo về chiến thắng của McClellan.
Một tấm áp phích chống McClellan từ Harper's Weekly, do Thomas Nast soạn, cho thấy những kẻ bạo loạn hành hung trẻ em, những kẻ bắt nô lệ đuổi theo những nô lệ bỏ trốn và một phụ nữ bị bán trong một cuộc đấu giá nô lệ.

Cuộc bầu cử năm 1864 là lần đầu tiên kể từ năm 1812, một cuộc bầu cử tổng thống diễn ra trong chiến tranh.

Trong phần lớn thời gian của năm 1864, bản thân Lincoln tin rằng mình có rất ít cơ hội tái đắc cử. Các lực lượng Liên minh đã chiến thắng trong Trận Mansfield, Trận Cold Harbor, Trận Brices Cross Roads, Trận núi KennesawTrận Crater. Ngoài ra, cuộc chiến đang tiếp tục gây ra thiệt hại rất lớn về người và của trong các chiến dịch như Chiến dịch Overland và sự ít tiến triển với cuộc chiến. Viễn cảnh về một cuộc chiến lâu dài và đẫm máu bắt đầu khiến ý tưởng "hòa bình bằng mọi giá" từ Đảng Dân chủ chủ hòa Cực đoan đưa ra được ủng hộ nhiều hơn.

Tuy nhiên, một số sự kiện chính trị và quân sự cuối cùng đã khiến việc Lincoln tái đắc cử chỉ còn là vấn đề thời gian. Ngay từ đầu, Đảng Dân chủ đã phải đối mặt với sự chia rẽ nội bộ gay gắt trong đảng tại Đại hội toàn quốc Đảng Dân chủ. Các thỏa hiệp chính trị được đưa ra tại Đại hội toàn quốc Đảng Dân chủ được cho là mâu thuẫn và khiến nỗ lực vận động tranh cử của McClellan dường như không có ý nghĩa.

Hơn nữa, Đại hội toàn quốc Đảng Dân chủ đã ảnh hưởng đến chiến dịch của Frémont. Frémont kinh hoàng trước cương lĩnh của Đảng Dân chủ, mà ông mô tả nó là "ủng hộ chế độ nô lệ". Sau ba tuần thảo luận với Cochrane và những người ủng hộ ông, Frémont rút lui khỏi cuộc đua vào tháng 9 năm 1864. Trong tuyên bố của mình, Frémont tuyên bố rằng chiến thắng trong Nội chiến là quá quan trọng, làm cho việc chia rẽ phiếu bầu cho Đảng Cộng hòa trở nên bất khả thi. Mặc dù ông vẫn cảm thấy rằng Lincoln chưa đi đủ xa, nhưng việc đánh bại McClellan là điều cần thiết nhất. Tướng Cochrane, một Đảng viên Đảng Dân chủ chủ chiến, đã đồng ý và rút lui khỏi cuộc đùa cùng thời điểm với Frémont. Vào ngày 23 tháng 9 năm 1864, Frémont cũng làm trung gian cho một thỏa thuận chính trị, trong đó Lincoln sa thải Tổng Giám đốc Bưu điện Hoa Kỳ Montgomery Blair, và vào ngày 24 tháng 9, Abraham Lincoln bãi chức Blair với tư cách Tổng Giám đốc Bưu điện. Cơ hội chiến thắng của McClellan dường như bằng không sau khi Frémont rút lui khỏi cuộc đua tổng thống.

Kết quả theo quận biểu thị tỷ lệ phiếu bầu cho ứng cử viên chiến thắng ở mỗi quận. Màu đỏ dành cho Lincoln (Liên minh Quốc gia) và màu xanh lam dành cho McClellan (Dân chủ).

Cuối cùng, với việc Atlanta thất thủ vào ngày 2 tháng 9, không còn nghi ngờ gì nữa rằng một chiến thắng quân sự của Liên bang chỉ còn là vấn đề thời gian.[19]

Cuối cùng, Đảng Liên minh Quốc gia đã huy động toàn bộ sức mạnh của cả Đảng Cộng hòa và Đảng Dân chủ chủ chiến với khẩu hiệu "Không đổi ngựa giữa dòng". Nó được tiếp thêm sức mạnh khi Lincoln coi giải phóng nô lệ là vấn đề trung tâm, và các đảng Cộng hòa của nhiều bang chú ý tới sự phản bội của Copperheads.[20]

Kết quả

[sửa | sửa mã nguồn]

Nội chiến Hoa Kỳ đang diễn ra và chưa kết thúc trong cuộc bầu cử này. Bởi vì 11 bang miền Nam đã tuyên bố ly khai khỏi Liên bang và thành lập Liên minh miền Nam Hoa Kỳ, chỉ có 25 bang tham gia cuộc bầu cử.

LouisianaTennessee gần đây đã được tái chiếm khỏi vòng tay của Liên minh. Họ đã bầu các đại cử tri bầu tổng thống, nhưng phiếu bầu của họ đã bị Quốc hội bác bỏ do đã từng ly khai khỏi Liên bang vài năm về trước. Cả hai tiểu bang đã bỏ phiếu ủng hộ Lincoln, vì vậy nó sẽ không thay đổi kết quả bầu cử ngay cả khi được tính đến.

Ba tiểu bang mới tham gia lần đầu tiên gồm Kansas, Tây Virginia và Nevada.

Mặc dù chính quyền bang Kentucky không bao giờ ly khai khỏi Liên bang nhưng tỷ lệ cử tri tham gia bầu cử giảm gần 40% so với cuộc bầu cử năm 1860.[21]

McClellan chỉ giành được ba bang: Kentucky, Delaware và New Jersey, quê hương của ông. Lincoln đã giành chiến thắng ở mọi tiểu bang mà ông đã giành được vào năm 1860 ngoại trừ New Jersey, và cũng đã giành được thêm một tiểu bang mà 4 năm trước đó Stephen Douglas giành được (Missouri), một từ John C. Breckinridge (Maryland) và cả ba tiểu bang mới được kết nạp (Kansas, Nevada và Tây Virginia). Tổng cộng, 212 phiếu đại cử tri đã được tính tại Quốc hội bầu cho Lincoln - quá đủ để đắc cử tổng thống ngay cả khi tất cả các bang ly khai đều tham gia và bỏ phiếu chống lại ông.

Lincoln rất nổi tiếng trong giới binh lính và họ lần lượt giới thiệu ông với gia đình họ ở quê nhà.[22][23] Các bang sau đây cho phép binh lính bỏ phiếu: California, Kansas, Kentucky, Maine, Michigan, Rhode Island và Wisconsin. Trong số 40247 phiếu bầu từ giới quân đội, Lincoln nhận được 30.503 (75,8%) và McClellan 9.201 (22,9%), phần còn lại (543 phiếu) phân bổ cho nhiều người khác (1,3%). Chỉ tại Kentucky, McClellan mới giành được đa số phiếu từ giới binh lính với tỷ lệ phiếu bầu 2823 (70,3%) so với 1194 (29,7%).[24]

Trong số 1.129 tái gia nhập Liên bang, Lincoln thắng với 728 phiếu (64,5%), trong khi McClellan thắng 400 phiếu (35,4%). Một quận (0,1%) ở Iowa chia đều số phiếu giữa Lincoln và McClellan.

Đây là cuộc bầu cử cuối cùng mà Đảng Cộng hòa thắng cử tại Maryland cho đến năm 1896.[25]

Kết quả bầu cử
Ứng cử viên tổng thống Đảng Bang nhà Phiếu Phổ thông(a) Phiếu Đại cử tri (a), (b), (c) Đồng tranh cử
Số phiếu % Ứng cử viên phó tổng thống Bang nhà Phiếu Đại cử tri
Abraham Lincoln(đương nhiệm) Liên hiệp Quốc gia Illinois 2,218,388 55.02% 212(b) Andrew Johnson Tennessee 212(b)
George Brinton McClellan Dân chủ New Jersey 1,812,807 44.96% 21 George Hunt Pendleton Ohio 21
Khác 658 0.02% Khác
Tổng cộng 4,031,887 100% 233(b) 233(b)
Cần thiết để giành chiến thắng 118(b) 118(b)
Phiếu Phổ thông
Lincoln
  
55.02%
McClellan
  
44.96%
Khác
  
0.02%
Phiếu Đại cử tri
Lincoln
  
91.63%
McClellan
  
8.93%

(a) Các bang ly khai không tham gia cuộc bầu cử năm 1864.

(b) 17 phiếu đại cử tri từ Tennessee và Louisiana không hợp lệ. Nếu phiếu của họ không bị từ chối, Lincoln sẽ nhận được 229 phiếu đại cử tri trên tổng số 251 (250 phiếu bầu do (c)), vượt xa con số 126 phiếu cần thiết để giành chiến thắng.

(c) Một đại cử tri từ Nevada đã không bỏ phiếu.

Thư viện kết quả

[sửa | sửa mã nguồn]

Kết quả theo bản đồ

[sửa | sửa mã nguồn]

Kết quả theo bang

[sửa | sửa mã nguồn]
  • Nguồn (hầu hết bang): Dữ liệu từ Walter Dean Burnham, Presidential ballots, 1836–1892 (Johns Hopkins University Press, 1955) pp. 247–57.
  • Nguồn (Tennessee): báo Chicago Tribune đương thời.[26]
Bang/Quận thắng bởi McClellan/Pendleton
Bang/Quận thắng bởi Lincoln/Johnson

Abraham Lincoln
Liên minh Quốc gia
George B. McClellan
Dân chủ
Cách biệt Tổng cộng
Bang phiếu đại
cử tri
# % phiếu đại
cử tri
# % phiếu đại
cử tri
# % #
California 5 62,053 58.60% 5 43,837 41.40% 18,216 17.20% 105,890
Connecticut 6 44,693 51.38% 6 42,288 48.62% 2,405 2.76% 86,981
Delaware 3 8,155 48.19% 8,767 51.81% 3 -612 -3.62% 16,922
Illinois 16 189,512 54.42% 16 158,724 45.58% 30,788 8.84% 348,236
Indiana 13 150,422 53.59% 13 130,233 46.40% 20,189 7.19% 280,655
Iowa 8 88,500 64.12% 8 49,525 35.88% 38,975 28.24% 138,025
Kansas 3 17,089 79.19% 3 3,836 17.78% 13,253 61.41% 21,580
Kentucky 11 27,787 30.17% 64,301 69.83% 11 -36,514 -39.66% 92,088
Louisiana 7 không có phiếu phổ thông 7 không có phiếu phổ thông N/A Phiếu không hợp lệ
Maine 7 67,805 59.07% 7 46,992 40.93% 20,813 18.14% 114,797
Maryland 7 40,153 55.09% 7 32,739 44.91% 7,414 10.18% 72,892
Massachusetts 12 126,742 72.22% 12 48,745 27.78% 77,997 44.44% 175,490
Michigan 8 79,149 53.60% 8 68,513 46.40% 10,636 7.20% 147,662
Minnesota 4 25,055 59.06% 4 17,357 40.94% 7,688 18.12% 42,422
Missouri 11 72,750 69.72% 11 31,596 30.28% 41,154 39.44% 104,346
Nevada 2 9,826 59.84% 2 6,594 40.16% 3,232 19.68% 16,420
New Hampshire 5 36,596 52.56% 5 33,034 47.44% 3,562 5.12% 69,630
New Jersey 7 60,723 47.16% 68,024 52.84% 7 -7,301 -5.68% 128,747
New York 33 368,735 50.46% 33 361,986 49.54% 6,749 0.92% 730,721
Ohio 21 265,654 56.37% 21 205,599 43.63% 60,055 12.74% 471,253
Oregon 3 9,888 53.90% 3 8,457 46.10% 1,431 7.80% 18,345
Pennsylvania 26 296,391 51.75% 26 276,316 48.25% 20,075 3.50% 572,707
Rhode Island 4 13,962 62.24% 4 8,470 37.76% 5,492 24.48% 22,432
Tennessee 10 30,000 85.71% 10 5,000 14.29% 25,000 35,000
Vermont 5 42,420 76.10% 5 13,322 23.90% 29,098 52.20% 55,742
West Virginia 5 23,799 68.24% 5 11,078 31.76% 12,721 36.48% 34,877
Wisconsin 8 83,458 55.88% 8 65,884 44.12% 17,574 11.80% 149,342
TỔNG CỘNG: 233 2,211,317 55.03% 212 1,806,227 44.93% 21 405,090 10.10% 4,018,202

Tiểu bang sít sao

[sửa | sửa mã nguồn]

Các bang màu đỏ đã giành được bởi Abraham Lincoln; các bang màu xanh lam đã giành được bởi George B. McClellan.

Bang có tỷ lệ chiến thắng dưới 1% (33 phiếu đại cử tri):

  1. New York 0,92% (6.749 phiếu bầu)

Các bang có tỷ lệ chiến thắng dưới 5% (35 phiếu đại cử tri):

  1. Connecticut 2,76% (2.405 phiếu bầu)
  2. Pennsylvania 3,50% (20.075 phiếu bầu)
  3. Delaware 3,62% (612 phiếu bầu)

Các bang có tỷ lệ chiến thắng dưới 10% (65 phiếu đại cử tri):

  1. New Hampshire 5,12% (3.562 phiếu bầu)
  2. New Jersey 5,68% (7.301 phiếu bầu)
  3. Indiana 7,19% (20.189 phiếu bầu)
  4. Michigan 7,20% (10.636 phiếu bầu)
  5. Oregon 7,8% (1.431 phiếu bầu)
  6. Illinois 8,8% (30.788 phiếu bầu)
  1. ^ a b 234 đại cử tri được trao quyền bỏ phiếu; tuy nhiên, một đại cử tri từ Nevada cam kết bầu cho đề cử của Lincoln/Johnson đã không thể bỏ phiếu do tuyết rơi dày đặc nên đã không thể bỏ lá phiếu bầu Tổng thống hoặc Phó Tổng thống, hạ tổng số phiếu dại cử tri toàn quốc xuống còn 233.[1]
  2. ^ a b c Các cuộc bầu cử được tổ chức tại các quận quân sự do Liên bang giành được từ Liên minh Miền Nam ở các bang Louisiana và Tennessee, nhưng không có phiếu đại cử tri nào trong số đó được tính.[2]

Tham khảo

[sửa | sửa mã nguồn]
  1. ^ a b Rocha, Guy. “Nevada Myths”. Nevada State Library and Archives. Bản gốc lưu trữ ngày 8 tháng 9 năm 2022. Truy cập ngày 22 tháng 4 năm 2021.
  2. ^ a b c Donald, David Herbert; Baker, Jean Harvey; Holt, Michael F. (2001). The Civil War and Reconstruction. New York: W. W. Norton & Company. tr. 427. ISBN 9780393974270.
  3. ^ “Voter Turnout in Presidential Elections”. The American Presidency Project. UC Santa Barbara.
  4. ^ Davis, William C. (1999). Lincoln's Men: How President Lincoln became Father to an Army and a Nation. Simon and Schuster. tr. 211. ISBN 0-684-83337-9. The public entrusted Lincoln with another term in spite of widespread revulsion at the death toll in the Wilderness Campaign. Republicans had found success in gubernatorial races in Ohio and Pennsylvania by attracting the votes of furloughed soldiers. In order to copy the same success nationally, thirteen Union states allowed their citizens serving as soldiers in the field to cast ballots. Four additional Union states allowed "proxy" absentee voting. "By margins of three to one or better, the soldiers lined up behind Lincoln." In every state, those returning home influenced their friends and family. For an alternative account of army voting, see W. Dean Burnham, "Presidential Ballots: 1836–1892", pp. 260–83. Out of the 40,247 Army votes cast in seven states, Lincoln carried six of them with 30,503 votes (75.8%).
  5. ^ “Abraham Lincoln: Campaigns and Elections”. American President: A Reference Resource. University of Virginia. Truy cập ngày 20 tháng 11 năm 2016.
  6. ^ Martis, Kenneth C., "Atlas of the Political Parties in the United States Congress, 1789–1989" ISBN 0-02-920170-5 p. 117. Altogether they elected 9 Senators and 25 Representatives in Missouri, Kentucky, West Virginia, Maryland and Delaware.
  7. ^ Guilford, Gwynn (28 tháng 11 năm 2016). “Fake news isn't a new problem in the US—it almost destroyed Abraham Lincoln”. Quartz (bằng tiếng Anh). Quartz (publication). Lưu trữ bản gốc ngày 6 tháng 9 năm 2020. this miscegenation hoax still "damn near sank Lincoln that year"
  8. ^ World Book
  9. ^ The Complete Book of U.S. Presidents
  10. ^ “HarpWeek | Elections | 1864 Overview”. Elections.harpweek.com. Truy cập ngày 12 tháng 10 năm 2013.
  11. ^ They Also Ran
  12. ^ The American Pageant
  13. ^ George Pendleton. Ohio History Central (May 23, 2013). Retrieved 2013-08-17.
  14. ^ “Democratic Party Platforms: 1864 Democratic Party Platform”.
  15. ^ “George B. McClellan”. Ohio History Central. Bản gốc lưu trữ ngày 25 tháng 1 năm 2009. Truy cập ngày 6 tháng 3 năm 2007.
  16. ^ “HarpWeek: Explore History, 1864: Lincoln v. McClellan. Truy cập ngày 31 tháng 5 năm 2010.
  17. ^ Kalb, Deborah biên tập (2010). Guide to U.S. Elections. Washington, DC: CQ Press. tr. 508. ISBN 978-1-60426-536-1.
  18. ^ McKinney, Effie. “Cleveland Convention”. Encyclopedia of Cleveland History. Truy cập ngày 13 tháng 5 năm 2022.
  19. ^ Lowe, Robert E. (2016). “Lincoln, the Fall of Atlanta, and the 1864 Presidential Election”. Georgia Historical Quarterly. 100 (3): 260. Truy cập ngày 14 tháng 2 năm 2018.
  20. ^ Randall, J. G.; Current, Richard (1955). Lincoln the President: Last Full Measure. tr. 307. ISBN 9780252068720.
  21. ^ “Presidential General Election Results Comparison - Kentucky”. Dave Leip's Atlas of U.S. Presidential Elections. Lưu trữ bản gốc ngày 18 tháng 9 năm 2006. Truy cập ngày 25 tháng 2 năm 2019.
  22. ^ Phillip Shaw Paludan, The Presidency of Abraham Lincoln (University Press of Kansas, 1994) pp. 274–93
  23. ^ Oscar O. Winther, "The Soldier Vote in the Election of 1864," New York History (1944) 25: 440–58
  24. ^ Presidential Ballots: 1836–1892, W. Dean Burnham, pp. 260–83
  25. ^ Counting the Votes; Maryland Lưu trữ tháng 11 7, 2017 tại Wayback Machine
  26. ^ Humanities, National Endowment for the (18 tháng 11 năm 1864). “Chicago tribune. [volume] (Chicago, Ill.) 1864-1872, November 18, 1864, Image 2”. ISSN 2572-9977. Truy cập ngày 5 tháng 12 năm 2021.

Đọc thêm

[sửa | sửa mã nguồn]

Nguồn chính

[sửa | sửa mã nguồn]
  • Chester, Edward W. A guide to political platforms (1977) pp. 80–85 online
  • Porter, Kirk H. and Donald Bruce Johnson, eds. National party platforms, 1840-1964 (1965) online 1840-1956

Liên kết ngoài

[sửa | sửa mã nguồn]