Bước tới nội dung

Bò Afrikaner

Bách khoa toàn thư mở Wikipedia
Bò Afrikaner
Tên gọi khácAfricander
Quốc gia nguồn gốcNam Phi
Phân bốNam Phi, Australia, Zimbabwe
Sử dụngLấy thịt
Đặc điểm
Cân nặng
  • Đực:
    820-1,090kg
  • Cái:
    450-600kg
Chiều cao
  • Đực:
    152cm
  • Cái:
    152cm
Bộ lôngĐỏ
Tình trạng sừngCó sừng
  • Bos primigenius

Bò Afrikaner, còn được gọi là Bò Africander, là một giống bò taurine-indicine ("Sanga"),[1] bò nhà ở Nam Phi.[2]

Đàn bò Sanga được chăn nuôi bởi người Khơ me (Hottentots) khi người Hà Lan thành lập Cape Colony vào năm 1652.

Sử dụng

[sửa | sửa mã nguồn]

Người Khơ-me sử dụng bò Afrikaner với mục đích sản sinh thịt và sữa. Afrikaner đã được sử dụng chủ yếu làm động vật phục vụ cho nông nghiệp (kéo cày) sau khi định cư ở châu Âu, thường được điều khiển thành các nhóm lớn[3] vào khoảng 14 con.[4] Chúng được lai tạo và phát triển để phù hợp hơn với mục đích này, và được các voortrekker đánh giá cao.[5] Chúng cũng được sử dụng làm bò sữa, mặc dù ít phổ biến hơn, tạo ra hàm lượng chất béo sữa cao hơn các giống bò khác, mà không cần thức ăn bổ sung.[6]

Thương mại

[sửa | sửa mã nguồn]

Afrikaner được sử dụng trong thương mại để sản xuất thịt bò, và thường được lai tạo với các giống khác để cải thiện chất lượng thịt, đặc biệt là liên quan đến sự dịu dàng, cũng như khả năng lớn hơn của chúng để tăng trọng lượng khi được cho ăn thức ăn gia súc kém chất lượng. Xã hội giống Nam Phi thúc đẩy việc sử dụng Afrikaner như một nguồn gen cho lai giống.[2]

Lai giống

[sửa | sửa mã nguồn]

Việc lai giống với Afrikaner làm tăng khả năng chịu nhiệt của các giống taurine.[7] Bò Bonsmara là kết quả của việc lai Afrikaners với Herefords và Shorthorns. Chúng được phát triển trong những năm 1960.[8] Bò Belmont Red là kết quả của việc lai Afrikaner với Bò HerefordBò Shorthorn bởi CSIRO ở Rockhampton, Queensland. Chúng được nuôi trong một nỗ lực để sản xuất một giống phù hợp hơn với sản xuất thịt bò ở những vùng nóng và khô.[9]

Tham khảo

[sửa | sửa mã nguồn]
  1. ^ Pienaar, L; Grobler, J; Neser, F; Scholtz, M; Swart, H; Ehlers, K; Marx, M (2014). “Genetic diversity in selected stud and commercial herds of the Afrikaner cattle breed”. South African Journal of Animal Science. Bản gốc lưu trữ ngày 8 tháng 12 năm 2019. Truy cập ngày 21 tháng 5 năm 2016.
  2. ^ a b “History”. The Afrikaner Cattle Breeders' Society of South Africa. Bản gốc lưu trữ ngày 9 tháng 5 năm 2019. Truy cập ngày 20 tháng 5 năm 2016.
  3. ^ Haggard, H (ngày 10 tháng 8 năm 1889). “King Solomon's Mines”. Darling Downs Gazette. Truy cập ngày 22 tháng 5 năm 2016 – qua Trove.
  4. ^ “Two Warnings”. Cobram Courier. ngày 9 tháng 3 năm 1893. Truy cập ngày 22 tháng 5 năm 2016 – qua Trove.
  5. ^ “Africander Cattle: A History of the Breed”. Chronicle. ngày 11 tháng 7 năm 1929. Truy cập ngày 23 tháng 5 năm 2016 – qua Trove.
  6. ^ “Africander Dairy Cows”. ngày 7 tháng 11 năm 1896. Truy cập ngày 22 tháng 5 năm 2016 – qua Trove.
  7. ^ Vercoe, J; Frisch, J; Moran, J (1972). “Apparent digestibility, nitrogen utilization, water metabolism and heat tolerance of Brahman cross, Africander cross and Shorthorn x Hereford steers” (PDF). The Journal of Agricultural Science. 79: 71–74. doi:10.1017/s0021859600025375.
  8. ^ Makina, Sithembile (2015). “Extent of Linkage Disequilibrium and Effective Population Size in Four South African Sanga Cattle Breeds”. Frontiers in Genetics. doi:10.3389/fgene.2015.00337. Truy cập ngày 22 tháng 5 năm 2016.
  9. ^ “Rare calf born at S.A. school”. Victor Harbour Times. ngày 16 tháng 6 năm 1977. Truy cập ngày 27 tháng 4 năm 2017.