Bác sĩ Jin
Bác sĩ Jin | |
---|---|
Thể loại | Lịch sử Khoa học viễn tưởng Chính kịch Y học |
Định dạng | Phim truyền hình |
Kịch bản | Motoka Murakami |
Đạo diễn | Yuichiro Hirakawa Yamamuro Daisuke Kawashima Ryutaro |
Diễn viên | Takao Osawa Haruka Ayase |
Quốc gia | Nhật Bản |
Ngôn ngữ | Tiếng Nhật |
Số tập | 22 |
Sản xuất | |
Giám chế | Akihiko Ishimaru |
Thời lượng | 54 phút Chủ nhật lúc 21:00 (JST) 11 tháng 10 năm 2009 - 26 tháng 06 năm 2011 |
Trình chiếu | |
Kênh trình chiếu | TBS |
Liên kết ngoài | |
Trang mạng chính thức |
Bác sĩ Jin (tiếng Nhật: JIN-仁-) là một bộ phim truyền hình dài tập của Nhật Bản gồm 2 phần, phần đầu (11 tháng 10 - 20 tháng 12 năm 2009) và phần cuối (17 tháng 4 - 26 tháng 6 năm 2011) được phát sóng bởi đài TBS (Đài Truyền hình Tokyo) vào mỗi 9 giờ tối Chủ Nhật. Bộ phim xoay quanh câu chuyện của một thầy thuốc tên Jin Minakata, thủ vai bởi Takao Osawa. Phim được chuyển thể từ bộ manga cùng tên của tác giả Motoka Murakami.
Lên sóng tại Nhật
[sửa | sửa mã nguồn]Phần đầu (Jin 1)
[sửa | sửa mã nguồn]Phần đầu có 11 tập (tương tự phần sau), chủ yếu xoay quanh sóng gió mà Minakata Jin, một bác sĩ ngoại khoa ở Tokyo, đã phải đối mặt khi du hành thời gian ngược về thời Edo sau một tai nạn tình cờ. Sau khi cứu sống một samurai nhà Tachibana có tên là Kyotaro, Jin đã được chính gia đình đó giúp đỡ trong tình cảnh không có nhân thân rõ ràng. Bằng khả năng y thuật đến từ thời hiện đại của mình mà Jin đã cứu sống được nhiều người, kết thân được với nhiều nhân vật quan trọng lịch sử thời Edo và mở ra một y quán mang tên Jinyu-do thu nhận các học trò là những người đam mê y học và ngưỡng mộ tài năng của Jin.
Vai chính Minakata Jin được đảm nhận bởi Takao Osawa, người trở lại trong một bộ phim truyền hình sau 8 năm kể từ Mukashi no Otoko (2001) (tạm dịch: Lão Nhân). Miki Nakatani, một trong những vai nữ chính cũng xuất hiện lại sau 7 năm kể từ Otosan (2003) (tạm dịch: Mẹ). Ngoài ra Haruka Ayase trong vai tiểu thư Saki Tachibana, từng đóng chung với Osawa trong Ichi (2008) ngay một năm trước đó. Phim được dẫn bởi lời đọc Kenichi Endo.
Ở tập 5, tỉ suất khán giả truyền hình của phim đã đạt 20% lần đầu tiên trong lịch sử các bộ phim truyền hình phát vào tháng 10. Các tập sau đó phim vẫn giữ được tỉ suất khán giả cao, đặc biệt là tập cuối với 29.8%. JIN đã trở thành bộ phim với tỉ suất truyền hình cao nhất năm 2009. Chính nhờ những đón nhận tích cực từ công chúng mà phim đã đại thành công ở các hạng mục trao giải với 33 đề cử trong và ngoài Nhật Bản, chỉ tính riêng phần 1.
Khi phần một kết thúc với nhiều dang dở, nhiều khán giả đã đặt nghi nhiều nghi vấn về phần kế tiếp của phim và việc chậm trễ trong thông báo chính thức trước truyền thông đã làm xuất hiện những ý kiến tiêu cực ở một nhóm dư luận nhỏ. Đầu năm 2010, một tờ báo tại Nhật có tên là Nikkan đưa tin JIN 2 sẽ trở lại vào mùa hè cùng năm nhưng ngay lập tức, nhà sản xuất của phim Akihiko Ishimaru đã phủ nhận thông tin này trên website chính thức. Ngày 27 và 28 tháng 12 năm 2010, phim đã được phát sóng lại trên truyền hình TBS với tựa mới Huyền thoại JIN (JIN-仁-レジェンド).
Phần cuối (Jin 2)
[sửa | sửa mã nguồn]Phần 2 của Bác sĩ Jin được thông báo chính thức trước công chúng và truyền thông vào ngày 8 tháng 6 năm 2010 nhưng phải đợi tới một năm sau thì mới chính thức lên sóng tập đầu tiên với độ dài hơn hai tiếng (21:00-23:03). Bốn năm sau khi Jin đặt chân tới Edo, biến cố đầu tiên liên quan tới căn bệnh beriberi hoành hành ở Edo thời bấy giờ mà mẹ của Saki (trợ lý của Jin) mắc phải, sau đó là những nỗ lực của Jin để thay đổi tiến trình lịch sử và những diễn biến liên quan đến giai đoạn tiền Chiến tranh Boshin giữa các phe phái ở Nhật Bản. Lúc này, những cơn đau đầu của Jin đã tiến triển xấu và cho thấy dấu hiệu của một khối u não. Ở phần này, người dẫn truyện Edo được thay thế bởi Masayuki Imai.
Bộ phim được vinh dự lên sóng vào đúng thời điểm TBS kỉ niệm 60 năm, trước đó, nhà sản xuất đã dự định sẽ chiếu phim ở 80 quốc gia trên thế giới (trong đó có Việt Nam vào năm 2014), ngoại trừ khu vực Nam Mỹ. Riêng tại Hàn Quốc, Châu Âu và Bắc Mỹ, Bác sĩ Jin 2 sẽ được chiếu ngay sau tháng 7.
11 tập của phần 2 tiếp tục duy trì được tỉ suất khán giả trung bình cao - hơn 20% ở cả hai vùng Kanto và Kansai, đặc biệt ở tập cuối, mặc dù kéo dài gần hai giờ đồng hồ (21:00-22:48) nhưng đã ghi nhận tỉ suất kỉ lục với 31.7% toàn quốc, khiến phim trở thành một trong những phim truyền hình được yêu thích nhất tại Nhật Bản năm 2011.
Diễn viên
[sửa | sửa mã nguồn]- Takao Osawa (大沢たかお) trong vai Jin Minakata - bác sĩ ngoại khoa, nhân vật chính mà câu chuyện xoay quanh
- Haruka Ayase (綾瀬はるか) trong vai Saki Tachibana - tiểu thư nhà samurai Tachibana, trợ lý cho bác sĩ Jin
- Miki Nakatani (中谷 美紀) trong vai Miki Tomonaga/Nokaze/Miki Tachibana - người yêu của Jin/một kĩ nữ thời Edo/con cháu nhà Tachibana
- Keisuke Koide (小出 恵介) trong vai Kyotaro Tachibana - con trai trưởng nhà Tachibana, anh trai Saki
- Yumi Aso (麻生 祐未) trong vai Ei Tachibana - mẫu thân của Kyotaro và Saki
- Masaaki Uchino (内野聖陽) trong vai Ryōma Sakamoto - nhân vật lịch sử, một nhà cách mạng thời Edo và là bạn thân của Jin
- Fumiyo Kohinata (小日向文世) trong vai Rintaro Katsu - nhân vật lịch sử, chính trị gia của Mạc Phủ Tokugawa và là cấp trên của Kyotaro
- Takahiro Fujimoto (藤本 たかひろ) trong vai Kichinosuke Saigo - nhân vật lịch sử, tướng quân của phe Choshu
- Kazufumi Miyazawa (宮沢和史) trong vai Isami Kondo - nhân vật lịch sử, kiếm sĩ và chỉ huy của Shinsengumi
- Kazuyuki Asano (浅野和之) trong vai Hisashige Tanaka - nhân vật lịch sử, nhà phát minh và bạn của Jin
- Tomoka Kurokawa (黒川智花) trong vai Công chúa Kazu - nhân vật lịch sử
- Tetsuya Takeda (武田 鉄矢) trong vai Kōan Ogata - nhân vật lịch sử, một nhà nghiên cứu y học và là bạn của Jin
- Masachika Ichimura (市村 正親) trong vai Shozan Sakuma - nhân vật lịch sử, học giả lỗi lạc
Nhạc phim
[sửa | sửa mã nguồn]- Phần 1: Aitakute Ima (逢いたくていま - Em Nhớ Anh) trình bày Misia
- Phần 2: Itoshiki Hibi yo (いとしき日々よ - Những Năm Tháng Ấy) trình bày Ken Hirai
Giải thưởng
[sửa | sửa mã nguồn]Jin 1
[sửa | sửa mã nguồn]Năm | Giải thưởng | Nội dung | Nhân vật | Thành tích |
---|---|---|---|---|
2010 | Giải phim truyền hình lần thứ 63 | Bộ phim hay nhất | Đoạt giải | |
Nam diễn viên xuất sắc nhất | Takao Osawa | Đoạt giải | ||
Diễn viên cống hiến nhất | Masaaki Uchino | Đoạt giải | ||
Nữ diễn viên xuất sắc nhất | Haruka Ayase | Đoạt giải | ||
Viết kịch bản xuất sắc nhất | Yoshiko Morishita | Đoạt giải | ||
Đạo diễn xuất sắc nhất | Yuichiro Hirakawa, Yamamuro Daisuke, Kawashima Ryutaro | Đoạt giải | ||
Nhạc phim hay nhất | "Aitakute Ima" bởi MISIA | Đoạt giải | ||
Giải phim truyền hình Tokyo | Diễn viên kiêm đạo diễn xuất sắc nhất[1] | Takao Osawa | Đoạt giải | |
Sản xuất phim chất lượng nhất[1] | Akihiko Ishimaru | Đoạt giải | ||
Giải phim châu Á xuất sắc nhất[1] | Đoạt giải |
Jin 2
[sửa | sửa mã nguồn]Năm | Giải | Nội dung | Nhân vật | Thành tích |
---|---|---|---|---|
2011 | Giải phim truyền hình Tokyo | Bộ phim hay nhất[2] | Đoạt giải | |
Diễn viên cống hiến nhất[2] | Masaaki Uchino | Đoạt giải | ||
Giải đặc biệt[2] | Production Staff | Đoạt giải | ||
Giải phim truyền hình xuất sắc nhất lần thứ 69 | Bộ phim hay nhất | Đoạt giải | ||
Diễn viên xuất sắc nhất | Takao Osawa | Đoạt giải | ||
Diễn viên cống hiến nhất | Masaaki Uchino | Đoạt giải | ||
Nữ diễn viên xuất sắc nhất | Haruka Ayase | Đoạt giải | ||
Dựng bối cảnh xuất sắc nhất | Yoshiko Morishita | Đoạt giải | ||
Đạo diễn xuất sắc nhất | Yuichiro Hirakawa |
Tham khảo
[sửa | sửa mã nguồn]- ^ a b c “2010 Tokyo Drama Awards”. International Drama Festival in Tokyo. Bản gốc lưu trữ ngày 27 tháng 10 năm 2011. Truy cập ngày 27 tháng 5 năm 2012.
- ^ a b c “2011 Tokyo Drama Awards”. International Drama Festival in Tokyo. Bản gốc lưu trữ ngày 8 tháng 9 năm 2011. Truy cập ngày 10 tháng 6 năm 2014.