Arlo – Cậu bé cá sấu
Arlo – Cậu bé cá sấu
| |
---|---|
Đạo diễn | Ryan Crego |
Kịch bản |
|
Cốt truyện | Ryan Crego |
Diễn viên | |
Dựng phim | Karen White |
Âm nhạc | Alex Geringas
|
Hãng sản xuất | |
Phát hành | Netflix |
Công chiếu |
|
Thời lượng | 92 phút |
Quốc gia | Hoa Kỳ |
Ngôn ngữ | Tiếng Anh |
Arlo – Cậu bé cá sấu (tựa gốc tiếng Anh: Arlo the Alligator Boy) là phim hoạt hình ca nhạc phiêu lưu 2D của Mỹ năm 2021 do Ryan Crego đạo diễn, đồng thời cũng là tác phẩm điện ảnh đầu tay của anh.[1] Phim có sự tham gia lồng tiếng của Michael J. Woodard và Mary Lambert – đây cũng là lần đầu tiên hai ca sĩ này đảm nhiệm vai trò này – cho hai nhân vật chính là Arlo và Bertie.[2] Tác phẩm được công chiếu lần đầu trên Netflix vào ngày 16 tháng 4 năm 2021[3] và được tiếp nối bởi một loạt phim truyền hình trực tuyến có tựa đề Arlo ở New York vào tháng 8 năm 2021.
Nội dung
[sửa | sửa mã nguồn]Arlo Beauregard, một cậu bé nửa người nửa cá sấu, được đặt trong cống thoát nước thải ở thành phố New York ngay sau khi chào đời, rồi cậu bị dòng nước cuốn trôi ra đại dương đến một đầm lầy xa xôi, nơi cậu được một người phụ nữ tên Edmée nhận nuôi. Trở thành một thiếu niên, Arlo mong muốn được giao lưu với mọi người nhưng sợ ngoại hình cá sấu của mình sẽ không được xã hội chấp nhận. Vào ngày sinh nhật thứ mười lăm của cậu, Edmée đưa cho Arlo chiếc vòng tay có được từ lúc cậu mới sinh và tiết lộ với Arlo rằng cậu đến từ thành phố New York.
Arlo quyết định đi đến thành phố này để tìm cha ruột của mình – Ansel Beauregard. Trong chuyến đi, Arlo bị phát hiện bởi một người có liên hệ với hai thợ săn cá sấu Ruff và Stucky. Sau khi những người thợ săn tìm thấy cậu, Arlo được cô gái khổng lồ Bertie cứu giúp. Tại một câu lạc bộ đấu vật, cả hai gặp Furlecia, Tony Tí Hon và Alia, và họ đồng ý đưa Arlo và Bertie đến New York sau khi cậu giúp họ giải cứu người bạn Marcellus của mình khỏi một thủy cung.
Đến New York, cả nhóm biết được doanh nhân Ansel Beauregard đang lên kế hoạch xây dựng lại Bãi bờ bên bờ biển – một khu ổ chuột gần bờ biển của thành phố. Tiếp cận Ansel Beauregard, Arlo được Ansel từ chối nhận cậu làm con trai, nhưng Arlo không đồng ý. Thất vọng và đơn độc, Arlo đi vào một cống thoát nước và sau đó được những người bạn mình tìm thấy tại chính Bãi bờ bên bờ biển. Những người bạn giúp Arlo hiểu ra rằng bất kể cậu có khác biệt như thế nào đi chăng nữa, những sai sót của cậu chính là điều khiến cậu trở thành chính của mình.
Tại buổi Met Gala tối hôm đó, Arlo và nhóm bạn đột nhập sự kiện nhưng bị Ruff, Stucky và quái thú đi cùng họ bí mật theo dõi. Sau đó, Arlo làm gián đoạn buổi dạ tiệc và Ansel cố gắng nói cho cậu biết sự thật. Tuy nhiên, Arlo sau đó bị Ruff và Stucky bắt cóc. Sau khi giải cứu Arlo, Ansel tiết lộ với khán giả rằng ông là một người chim và cũng là cha ruột của Arlo. Khi xưa ông từ bỏ cậu để che giấu danh tính người chim của mình và ông muốn Arlo tha thứ cho mình và bắt đầu lại mối quan hệ. Vui mừng, Arlo ôm cha và tha thứ cho ông, nhưng từ chối sống với ông để ở cùng những người bạn của mình. Ansel quyết định để Arlo và nhóm bạn chuyển đến và xây dựng lại khu Bãi bờ bên bờ biển, và Arlo chấp nhận đây chính là nơi cậu thực sự thuộc về. Ở cảnh danh đề, Edmée nhận được một tấm bưu thiếp và bà biết được về cuộc sống mới của Arlo.
Lồng tiếng
[sửa | sửa mã nguồn]- Michael J. Woodard vai Arlo Beauregard
- Mary Lambert vai Bertie
- Haley Tju vai Alia
- Jonathan Van Ness vai Furlecia
- Brett Gelman vai Marcellus
- Tony Hale vai Tony Tí Hon
- Annie Potts vai Edmée
- Flea vai Ruff
- Jennifer Coolidge vai Stucky
- Vincent Rodriguez III vai Ansel Beauregard
- Fred Tatasciore vai Quái thú
Sản xuất
[sửa | sửa mã nguồn]Phim được Netflix công bố vào tháng 11 năm 2020 với Ryan Crego đảm nhiệm vai trò đạo diễn.[4] Album nhạc phim được hãng Capitol Records phát hành vào ngày 16 tháng 4 năm 2021.[5]
Arlo The Alligator Boy: Music From The Netflix Film | |||
---|---|---|---|
STT | Nhan đề | Ca sĩ | Thời lượng |
1. | "More More More" | Michael J. Woodard | 2:13 |
2. | "Happy Birthday to Ya" | Annie Potts | 0:45 |
3. | "Beyond These Walls" | Woodard | 2:27 |
4. | "More More More (Reprise)" | Woodard | 0:26 |
5. | "Follow Me Home (Intro)" |
| 0:22 |
6. | "Follow Me Home" |
| 3:34 |
7. | "New York, My Home" | Ryan Crego | 0:45 |
8. | "Right There with You" | Rudi Alizah Gutierrez | 2:10 |
9. | "Better Life" | Vincent Rodriguez III | 2:49 |
10. | "The Collage of Broken Dreams" | Woodard | 1:39 |
11. | "Wash the Hurt Away" | Woodard | 2:13 |
12. | "Something's Missing" |
| 2:56 |
13. | "Beautiful Together" |
| 2:42 |
14. | "Arlo's Journey (Score Suite)" | Alex Geringas | 2:53 |
Tổng thời lượng: | 27:46 |
Đón nhận
[sửa | sửa mã nguồn]Đánh giá chuyên môn
[sửa | sửa mã nguồn]Trên hệ thống tổng hợp kết quả đánh giá Rotten Tomatoes, phim nhận được 84% lượng đồng thuận dựa theo 19 bài đánh giá, với điểm trung bình là 7,4/10.[6] Bình luận cho The New York Times, Amy Nicholson viết: "Rất lâu trước khi nhóm bạn tinh quái phá đám sự kiện Met Gala, rõ ràng là đạo diễn Ryan Crego đang đưa những kẻ lập dị vào một cốt truyện quen thuộc" đồng thời cũng khen ngợi "một số câu đùa hoàn toàn xứng đáng".[7] Viết cho Pajiba, Kristy Puchko nhận định sự hiện diện của các yếu tố LGBT trong phim "không chỉ đáng hoan nghênh mà còn mang tính đột phá" và dành nhiều lời khen ngợi cho phong cách kể chuyện, các nhân vật và phần hoạt hoạ.[8]
Giải thưởng
[sửa | sửa mã nguồn]Giải thưởng | Ngày | Hạng mục | Đề cử | Kết quả | Nguồn |
---|---|---|---|---|---|
Giải Annie | 12 tháng 3 năm 2022 | Thành tựu đột phá cho dựng phim trong sản phẩm truyền hình/phát sóng hoạt hình | Steve Downs | Đề cử | [9] |
Thành tựu đột phá cho thiết kế sản xuất trong sản phẩm truyền hình/phát sóng hoạt hình | Israel Sanchez, Margaret Wuller, Michelle Haejung Park, Kayla Jones và Tania Franco | Đề cử | |||
Thành tựu đột phá cho lồng tiếng trong sản phẩm truyền hình/phát sóng hoạt hình | Michael J. Woodard | Đề cử | |||
Kidscreen Awards | 19 tháng 7 năm 2022 | Tập phim truyền hình đặc biệt hoặc cho mùa lễ hội xuất sắc nhất | Arlo – Cậu bé cá sấu | Chưa công bố | [10] |
Giải Hollywood Music in Media | 17 tháng 11 năm 2021 | Bài hát gốc hay nhất trong phim hoạt hình | Ryan Crego và Alex Geringas (cho "Follow Me Home") | Đề cử | [11][12] |
Tương lai
[sửa | sửa mã nguồn]Loạt phim truyền hình hoạt hình Arlo ở New York được phát hành trên Netflix vào ngày 27 tháng 8 năm 2021, bao gồm 19 tập phim, tiếp nối câu chuyện của Arlo – Cậu bé cá sấu sau khi Arlo và nhóm bạn tân trang lại khu Bãi bờ bên bờ biển của New York.[13]
Tham khảo
[sửa | sửa mã nguồn]- ^ Schorin, PJ (ngày 19 tháng 3 năm 2021). “Arlo the Alligator Boy Trailer Shows A Boy Swapping The Swamp For The City”. Screen Rant. Lưu trữ bản gốc ngày 4 tháng 5 năm 2021. Truy cập ngày 19 tháng 3 năm 2021.
- ^ Sledge, Philip (ngày 16 tháng 4 năm 2021). “Arlo The Alligator Boy Cast: Where You've Heard Or Seen The Actors Before”. Cinema Blend. Lưu trữ bản gốc ngày 22 tháng 4 năm 2021. Truy cập ngày 21 tháng 4 năm 2021.
- ^ Holub, Christian (ngày 17 tháng 3 năm 2021). “Colorful swamp misfits make their way to NYC in Netflix's Arlo the Alligator Boy trailer”. Entertainment Weekly (bằng tiếng Anh). Lưu trữ bản gốc ngày 4 tháng 5 năm 2021. Truy cập ngày 17 tháng 3 năm 2021.
- ^ “Arlo the Alligator Boy Makes His Debut In An All-New Animated Movie Musical and Series on Netflix”. Netflix Media Center (Thông cáo báo chí). ngày 12 tháng 11 năm 2020. Lưu trữ bản gốc ngày 12 tháng 11 năm 2020. Truy cập ngày 17 tháng 3 năm 2021.
- ^ Milligan, Mercedes (ngày 17 tháng 3 năm 2021). “Trailer: Netflix Sets 'Arlo the Alligator Boy' Premiere, OST”. Animation Magazine. Lưu trữ bản gốc ngày 17 tháng 3 năm 2021. Truy cập ngày 17 tháng 3 năm 2021.
- ^ “Arlo the Alligator Boy”. Rotten Tomatoes. Fandango Media. Truy cập ngày 16 tháng 4 năm 2021.
- ^ Nicholson, Amy (ngày 16 tháng 4 năm 2021). “'Arlo the Alligator Boy' Review: Of Songs and Scales”. The New York Times. Lưu trữ bản gốc ngày 21 tháng 4 năm 2021. Truy cập ngày 4 tháng 5 năm 2021.
- ^ Puchko, Kristy (ngày 14 tháng 4 năm 2021). “Now On Netflix: 'Arlo The Alligator Boy' Delivers A Rousing And Family-Friendly Queer Fable”. Pajiba. Lưu trữ bản gốc ngày 14 tháng 4 năm 2021. Truy cập ngày 5 tháng 5 năm 2021.
- ^ Giardina, Carolyn (ngày 21 tháng 12 năm 2021). “Raya and the Last Dragon Leads 2022 Annie Awards Feature Nominations”. The Hollywood Reporter. Truy cập ngày 23 tháng 12 năm 2021.
- ^ Dickson, Jeremy (ngày 30 tháng 11 năm 2021). “Activism, Netflix dominate Kidscreen Awards nominations”. Kidscreen Awards. Truy cập ngày 13 tháng 1 năm 2022.
- ^ Grein, Paul (ngày 4 tháng 11 năm 2021). “Ariana Grande, Beyonce & More Vie for Hollywood Music in Media Awards: Complete Film Nominations List”. Billboard. Lưu trữ bản gốc ngày 9 tháng 11 năm 2021. Truy cập ngày 11 tháng 11 năm 2021.
- ^ Grein, Paul (ngày 17 tháng 11 năm 2021). “No Time to Die Wins at 2021 Hollywood Music in Media Awards: Full List of Film Music Winners”. The Hollywood Reporter. Lưu trữ bản gốc ngày 19 tháng 11 năm 2021. Truy cập ngày 18 tháng 11 năm 2021.
- ^ Whyte, Alexandra (ngày 12 tháng 11 năm 2020). “Netflix orders Arlo the Alligator movie & series”. Kidscreen. Lưu trữ bản gốc ngày 12 tháng 11 năm 2020. Truy cập ngày 12 tháng 11 năm 2020.
Liên kết ngoài
[sửa | sửa mã nguồn]- Phim năm 2021
- Phim hoạt hình Mỹ thập niên 2020
- Phim hoạt hình thiếu nhi thập niên 2020
- Phim ca nhạc thập niên 2020
- Phim Mỹ
- Phim hoạt hình về động vật bò sát và lưỡng cư
- Nhạc phim của Capitol Records
- Phim về cá sấu
- Phim lấy bối cảnh ở thành phố New York
- Phim hãng Netflix Animation
- Nhạc phim của Universal Music Group
- Phim tiếng Anh thập niên 2020
- Phim ca nhạc hoạt hình
- Phim gốc Netflix