Bước tới nội dung

Alfred Tennyson

Bách khoa toàn thư mở Wikipedia
1869 Carbon print by Julia Margaret Cameron
Sinhngày 6 tháng 8 năm 1809
Somersby, Lincolnshire, Anh
Mất6 tháng 10 năm 1892(1892-10-06) (83 tuổi)
Lurgashall, Sussex, Anh[1]
Nghề nghiệpPoet Laureate
Alma materCambridge University
Phối ngẫu
Emily Sellwood (cưới 1850)
Con cái

Alfred Tennyson (06 tháng 8 năm 1809 – 06 tháng 10 năm 1892) – nhà thơ Anh, người thể hiện thế giới quan đa cảm và bảo thủ của thời đại Victoria, một trong những nhà thơ nổi tiếng nhất của Anh. Ông là người được phong Nam tước Tennyson đệ nhất (1st Baron Tennyson) hoặc Lord Tennyson.

Tiểu sử

[sửa | sửa mã nguồn]

Tennyson sinh ở Somersby, Lincolnshire. Là con thứ tư của một gia đình đông con. Bố là một cha đạo có năng khiếu về thơ ca nên có sự ảnh hưởng đến Tennyson từ bé. Năm lên 15 tuổi đã viết trường ca và kịch. Năm 1827 in quyển Thơ của hai anh em (Poems by Two Brothers) mà chủ yếu là thơ của Tennyson. Những năm học ở Đại học Cambridge, tham gia Hội văn chương của trường, làm quen với nhiều người nổi tiếng. Năm 1829 được tặng huy chương cho bài thơ Timbucto, cũng trong năm này xuất bản quyển Thơ, chủ yếu là thơ trữ tình (Poems Chiefly Lyrical). Năm 1831 bố mất, Tennyson phải bỏ học để về giúp mẹ. Năm 1832 in tập Thơ (Poems) có bài thơ Cô tiên vùng Shalott (The Lady of Shalott) nổi tiếng. Năm 1842 in tập thơ Cái chết của Arthur (Morte d'Arthur), năm 1847 in trường ca Công chúa (The Princess).

Alfred Tennyson đạt đến đỉnh cao trong sự nghiệp của mình vào năm 1850 khi ông in tập thơ Tưởng nhớ A. H. H. (In Memoriam A.H.H.). Đây là những bài thơ viết về người bạn Arthur Henry Hallam đã qua đời đột ngột do bệnh đột quỵ ở Vienna năm 1833. Những bài thơ này được viết trong khoảng thời gian 17 năm, là những suy ngẫm thiền định của nhà thơ về những vấn đề muôn thuở của Tình yêu, Cuộc sốngCái chết. Tập thơ này có được sự thành công vang dội. Cũng trong năm này ông kết hôn với Emily Sellwood, người yêu từ thuở thiếu thời và ông được bầu làm Nhà thơ Hoàng gia (Poet Laureate).

Alfred Tennyson là tác giả của một số bài thơ được coi là cổ điển của Anh như: Cô tiên vùng Shalott (The Lady of Shalott), Uy-lít-xê (Ulysses) và là một trong những tác giả được trích dẫn nhiều nhất của văn học Anh. Bằng chứng mới nhất là Đại hội Thể thao Olympic London năm 2012 đã chọn câu thơ "To strive, to seek, to find, and not to yield" (tạm dịch: Để phấn đấu, để đi tìm, để tìm thấy và không chịu lép vế) để làm khẩu hiệu cho Thế vận hội này. Ông là một trong những người có nhiều câu danh ngôn được yêu thích và sử dụng nhiều nhất. Trong cuốn sách The Oxford Dictionary of Quotations ông được xếp vào vị thứ 9.

Alfred Tennyson mất ngày o6 tháng 10 năm 1892 và được mai táng tại Góc Thi sĩ (Poets’ Corner) của Tu viện Westminster danh tiếng.

Tác phẩm

[sửa | sửa mã nguồn]
  • Thơ của hai anh em (Poems by Two Brothers), 1827
  • Thơ, chủ yếu là thơ trữ tình (Poems Chiefly Lyrical), 1829
  • Quỷ sứ và Quí bà (The Devil and the Lady), 1930
  • Thơ (Poems), 1832
  • Cái chết của Arthur (Morte d'Arthur), 1842
  • Công chúa (The Princess), 1847
  • Tưởng nhớ A. H. H. (In Memoriam A.H.H., 1849)
  • Enoch Arden và những bài thơ khác (Enoch Arden and Other Poems), 1864
  • Chén thần và những bài thơ khác (The Holy Grail and Other Poems), 1869
  • Tiresias và những bài thơ khác (Tiresias and Other Poems), 1885
  • Locksley Hall sáu mươi năm sau (Locksley Hall Sixty Years After), 1886
  • Cái chết của Oenone và những bài thơ khác (The Death of Oenone and Other Poems), 1892

Một bài thơ

[sửa | sửa mã nguồn]
Cô tiên vùng Shalott
I
Ở hai bên bờ sông
Có những đồng lúa mạch
Những cánh đồng tít tắp
Và có những con đường
Dẫn về Camelot.
Những người đi trên đường
Ngắm những bông hoa đẹp.
Hoa huệ nở xung quanh
Hòn đảo vùng Shalott.
Gió thổi rung mặt nước
Những cành liễu cúi mình
Dòng sông chảy vòng quanh
Cung điện Camelot.
Bốn bức tường xám ngắt
Bốn ngọn tháp uy nghiêm
Chúng ngước mắt trông lên
Và im lặng đứng nhìn
Cô tiên vùng Shalott.
Liễu cúi trên mặt nước
Thuyền bè đang tấp nập
Cả thuyền lớn thuyền con
Và cả những chiếc xuồng
Đổ về Camelot.
Nhưng có ai nhìn được
Tiên bên cửa nhà mình
Hay trên bốn bức tường
Cô tiên vùng Shalott?
Chỉ những người thợ gặt
Trên những đồng lúa mạch
Sau tiếng hái, tiếng liềm
Nghe tiếng hát vang lên
Vọng về Camelot.
Khi cuối ngày mỏi mệt
Ngồi dưới ánh trăng thanh
Họ hát lên thì thầm:
"Cô tiên vùng Shalott".
II
Cả ngày đêm nàng dệt
Những tấm vải thần tiên
Tiếng thì thầm cho biết
Số kiếp ngăn cản nàng
Nhìn xuống Camelot.
Không biết gì số kiếp
Nàng vẫn dệt ngày đêm
Ngồi sau những bức tường
Cô tiên vùng Shalott.
Chỉ niềm vui duy nhất
Nhìn chiếc gương trước mặt
Thấy luân chuyển tháng năm
Những chiếc bóng, từng đoàn
Đổ về Camelot.
Dòng sông ngời bọt nước
Có bóng những đàn ông
Và bóng những cô nàng
Đi qua vùng Shalott.
Và trong từng khoảnh khắc
Trong chiếc gương trước mặt
Những chiếc bóng lướt nhanh
Đủ hạng người, từng dòng
Đổ về Camelot.
Đôi khi thấy trong góc
Những hiệp sĩ oai hùng
Nhưng họ không nhìn tiên
Cô tiên vùng Shalott.
Nhưng mà tiên vẫn thích
Nhìn vào gương ma thuật
Khi trong đêm lặng yên
Nhìn đám tang đau buồn
Đi về Camelot.
Dưới ánh trăng trong vắt
Đôi tình nhân trẻ trung
"Tai họa!" – tiên kêu lên
Cô tiên vùng Shalott.
III
Tên cung và khiên mộc
Leng keng bên áo giáp
Dưới mặt trời chói chang
Phóng như bay trên đồng
Oai hùng Lancelot.
Tên nàng trên áo giáp
Tên nàng khắc trên khiên
Giữa cánh đồng hoa vàng
Ở gần vùng Shalott.
Chàng nhanh tay thúc giục
Ngựa bước chân dồn dập
Giữa hoàn vũ ánh vàng
Tiếng chuông cũng hân hoan
Trên đường Camelot.
Sáng ngời lên ánh bạc
Cây gươm bên hông chàng
Tiếng tù và ngân vang
Ở gần vùng Shalott.
Giữa màu xanh trời đất
Yên ngựa ngời ánh bạc
Chiếc mũ trên đầu chàng
Như ngọn lửa cháy lên
Trên đường Camelott.
Như trong đêm tím ngát
Ngôi sao vút bay nhanh
Như một ngôi sao băng
Trên bầu trời Shalott.
Vầng trán rộng của chàng
Mái tóc dài đen mượt
Tất cả như ánh lên
Rạng ngời trên con đường
Dẫn về Camelot.
Chàng cất lên tiếng hát
Hoa cỏ cũng lặng ngừng
"Tirra lira", bên sông
Tiếng chàng Lancelot.
Tiên bỗng ngừng tay đan
Rồi bước qua căn phòng
Tiên nhìn hoa huệ nước
Và tiên nhìn thấy chàng
Phóng về Camelot.
Tấm vải thêu đã rách
Và gương vỡ tan tành
"Tai họa!" – tiên kêu lên
Cô tiên vùng Shalott.
IV
Rừng buồn bã, úa vàng
Trong lời cơn gió khóc
Sông suối cũng đau buồn
Nặng trĩu bầu trời xanh
Bao trùm Camelot.
Tiên bước ra dòng nước
Nàng tìm một chiếc thuyền
Trên chiếc thuyền ghi tên:
Cô tiên vùng Shalott.
Nàng đi theo con sông
Quên nỗi buồn số kiếp
Bất hạnh của riêng mình
Nàng ngồi trên dòng sông
Nhìn về Camelot.
Và khi mặt trời tắt
Khi dưới ánh hoàng hôn
Con sông chở cô tiên
Cô tiên vùng Shalott.
Bộ áo váy của nàng
Ánh lên như màu tuyết
Khi ánh sáng chiếu lên
Trong đêm thuyền của nàng
Bơi về Camelot.
Nàng cất lên tiếng hát
Những lời hát đau thương
Là bài hát cuối cùng
Cô tiên vùng Shalott.
Tất cả như lặng ngừng
Khi lời ca im bặt
Dòng máu nóng đã ngưng
Và đôi mắt mơ màng
Hướng về Camelot.
Nàng chết theo câu hát
Khi đến nhà đầu tiên
Khi đó đã không còn
Cô tiên vùng Shalott.
Dưới ban công, dưới tháp
Hay bên những bức tường
Một bóng ma tái nhợt
Lặng lẽ và mơ màng
Đi vào Camelot.
Nghe tin, ngay lập tức
Dân chúng kéo đến đông
Họ xướng tên của nàng:
Cô tiên vùng Shalott.
Ai đây? Điều gì đây?
Tất cả đều nguyện cầu
Tất cả đều sợ sệt
Nỗi sợ hãi bao trùm
Cư dân Camelot.
Nhưng lời Lancelot:
"Gương mặt nàng dễ thương
Hãy yên nghỉ linh hồn
Cô tiên vùng Shalott".
Bản dịch của Hồ Thượng Tuy
The Lady of Shalott
Part I
On either side the river lie
Long fields of barley and of rye,
That clothe the wold and meet the sky;
And through the field the road runs by
To many-towered Camelot;
And up and down the people go,
Gazing where the lilies blow
Round an island there below,
The island of Shalott.
Willows whiten, aspens quiver,
Little breezes dusk and shiver
Through the wave that runs for ever
By the island in the river
Flowing down to Camelot.
Four gray walls, and four gray towers,
Overlook a space of flowers,
And the silent isle imbowers
The Lady of Shalott.
By the margin, willow veiled
Slide the heavy barges trailed
By slow horses; and unhailed
The shallop flitteth silken-sailed
Skimming down to Camelot:
But who hath seen her wave her hand?
Or at the casement seen her stand? 25
Or is she known in all the land,
The Lady of Shalott?
Only reapers, reaping early
In among the bearded barley,
Hear a song that echoes cheerly
From the river winding clearly,
Down to towered Camelot:
And by the moon the reaper weary,
Piling sheaves in uplands airy,
Listening, whispers "'Tis the fairy
Lady of Shalott."
Part II
There she weaves by night and day
A magic web with colours gay.
She has heard a whisper say,
A curse is on her if she stay
To look down to Camelot.
She knows not what the curse may be,
And so she weaveth steadily,
And little other care hath she,
The Lady of Shalott.
And moving through a mirror clear
That hangs before her all the year,
Shadows of the world appear.
There she sees the highway near
Winding down to Camelot: 50
There the river eddy whirls,
And there the curly village-churls,
And the red cloaks of market girls,
Pass onward from Shalott.
Sometimes a troop of damsels glad,
An abbot on an ambling pad,
Sometimes a curly shepherd-lad,
Or long-haired page in crimson clad,
Goes by to towered Camelot;
And sometimes through the mirror blue
The knights come riding two and two:
She hath no loyal knight and true,
The Lady of Shalott.
But in her web she still delights
To weave the mirror's magic sights,
For often through the silent nights
A funeral, with plumes and lights
And music, went to Camelot:
Or when the moon was overhead,
Came two young lovers lately wed;
"I am half sick of shadows," said
The Lady of Shalott.
Part III
A bow-shot from her bower-eaves,
He rode between the barley-sheaves,
The sun came dazzling through the leaves, 75
And flamed upon the brazen greaves
Of bold Sir Lancelot.
A red-cross knight for ever kneeled
To a lady in his shield,
That sparkled on the yellow field,
Beside remote Shalott.
The gemmy bridle glittered free,
Like to some branch of stars we see
Hung in the golden Galaxy.
The bridle bells rang merrily
As he rode down to Camelot:
And from his blazoned baldric slung
A mighty silver bugle hung,
And as he rode his armour rung,
Beside remote Shalott.
All in the blue unclouded weather
Thick-jewelled shone the saddle-leather,
The helmet and the helmet-feather
Burned like one burning flame together,
As he rode down to Camelot.
As often through the purple night,
Below the starry clusters bright,
Some bearded meteor, trailing light,
Moves over still Shalott.
His broad clear brow in sunlight glow'd; 100
On burnished hooves his war-horse trode;
From underneath his helmet flowed
His coal-black curls as on he rode,
As he rode down to Camelot.
From the bank and from the river
He flashed into the crystal mirror,
"Tirra lira," by the river
Sang Sir Lancelot.
She left the web, she left the loom,
She made three paces through the room,
She saw the water-lily bloom,
She saw the helmet and the plume,
She looked down to Camelot.
Out flew the web and floated wide;
The mirror cracked from side to side;
"The curse is come upon me," cried
The Lady of Shalott.
Part IV
In the stormy east-wind straining,
The pale yellow woods were waning,
The broad stream in his banks complaining,
Heavily the low sky raining
Over towered Camelot;
Down she came and found a boat
Beneath a willow left afloat,
And round about the prow she wrote 125
The Lady of Shalott.
And down the river's dim expanse
Like some bold seer in a trance,
Seeing all his own mischance —
With a glassy countenance
Did she look to Camelot.
And at the closing of the day
She loosed the chain, and down she lay;
The broad stream bore her far away,
The Lady of Shalott.
Lying, robed in snowy white
That loosely flew to left and right —
The leaves upon her falling light —
Through the noises of the night
She floated down to Camelot:
And as the boat-head wound along
The willowy hills and fields among,
They heard her singing her last song,
The Lady of Shalott.
Heard a carol, mournful, holy,
Chanted loudly, chanted lowly,
Till her blood was frozen slowly,
And her eyes were darkened wholly,
Turned to towered Camelot.
For ere she reached upon the tide 150
The first house by the water-side,
Singing in her song she died,
The Lady of Shalott.
Under tower and balcony,
By garden-wall and gallery,
A gleaming shape she floated by,
Dead-pale between the houses high,
Silent into Camelot.
Out upon the wharfs they came,
Knight and burgher, lord and dame,
And round the prow they read her name,
The Lady of Shalott.
Who is this? and what is here?
And in the lighted palace near
Died the sound of royal cheer;
And they crossed themselves for fear,
All the knights at Camelot:
But Lancelot mused a little space;
He said, "She has a lovely face;
God in his mercy lend her grace,
The Lady of Shalott."

Tham khảo

[sửa | sửa mã nguồn]
  1. ^ “British Listed Buildings – Aldworth House, Lurgashall”. British Listed Buildings Online. Truy cập ngày 5 tháng 11 năm 2012.

Liên kết ngoài

[sửa | sửa mã nguồn]