Aegirin
Aegirin | |
---|---|
Aegirin | |
Thông tin chung | |
Thể loại | Khoáng vật silicat, pyroxen |
Công thức hóa học | Na Fe3+[ Si2O6] |
Hệ tinh thể | lăng trụ đơn tà |
Nhóm không gian | 2/m |
Ô đơn vị | a = 9,658 Å, b = 8,795 Å, c = 5,294 Å, β = 107,42°; Z=4 |
Nhận dạng | |
Phân tử gam | 231,00 |
Màu | lục sẫm, đen lục |
Dạng thường tinh thể | tinh thể lăng trụ tập hợp hình kim, sợi và tỏa tia |
Song tinh | song tinh đơn giảm và dạng tấm phổ biến theo mặt {100} |
Cát khai | tốt theo {110}, (110) ^ (110) ≈87°; một phần theo {100} |
Vết vỡ | không rõ |
Độ bền | giòn |
Độ cứng Mohs | 6 |
Ánh | thủy tinh đến nhựa |
Màu vết vạch | xám vàng |
Tính trong mờ | trong mờ đến đục |
Tỷ trọng riêng | 3,50 - 3,60 |
Thuộc tính quang | hai trục (-) |
Chiết suất | nα = 1,720 - 1,778 nβ = 1,740 - 1,819 nγ = 1,757 - 1,839 |
Khúc xạ kép | δ = 0,037 - 0,061 |
Đa sắc | X = lục emerald, lục đậm; Y = lá mạ, lục đậm, vàng; Z = lục nâu, lục, nâu vàng, vàng |
Góc 2V | giá trị đo: 60° đến 90°, giá trị tính: 68° đến 84° |
Tán sắc | trung bình đến mạnh r > v |
Tham chiếu | [1][2][3][4] |
Aegirin là một khoáng vật khoáng vật silicat mạch là một thuộc nhóm pyroxen đơn tà. Aegirin là khoáng vật nền natri trong dãi aegirin-augit. Aegirin có công thức hóa học là NaFeSi2O6, trong đó sắt ở dạng Fe3+. Trong dãi aegirin-augit, natri dần dần được thay thế bởi calci, và sắt (II) với magnesi t hay thế sắt (III) để cân bằng điện tích. Nhôm cũng thay thế vào trị trí của sắt (III). Nó còn được gọi là acmit, là một biến thể dạng sơi, màu lục.
Aegirin thường có mặt trong các đá mácma kiềm, nephelin syenit, carbonatit và pegmatit. Ngoài ra, nó còn có mặt trong các đá schist, gneiss bị biến chất khu vực và trong các thành hệ sắt; trong các đá tướng phiến lam, và từ quá trình biến chất trao đổi biến đổi natri trong granulit. Nó có thể có mặt ở dạng khoáng vật tại chỗ (tại sinh) trong đá phiến sét và marl. Nó đi cùng với fenspat kali, nephelin, riebeckit, arfvedsonit, aenigmatit, astrophyllit, catapleiit, eudialyt, serandit và apophyllit.[1]
Các địa phương tìm thấy khoáng vật này như Mont Saint-Hilaire, Quebec, Canada; Kongsberg, Na Uy; Narsarssuk, Greenland; bán đảo Kola, Nga; Magnet Cove, Arkansas, Hoa Kỳ; Kenya; Scotland và Nigeria.
Khoáng vật này được miêu tả đầu tiên vào năm 1835 khi nó được phát hiện ở Rundemyr, Øvre Eiker, Buskerud, Na Uy. Aegirin được đặt theo tên Ægir, vị thần biển Teutonic.[2]
Xem thêm
[sửa | sửa mã nguồn]Tham khảo
[sửa | sửa mã nguồn]- ^ a b http://rruff.geo.arizona.edu/doclib/hom/aegirine.pdf Handbook of Mineralogy
- ^ a b http://www.mindat.org/min-31.html Mindat
- ^ http://webmineral.com/data/Aegirine.shtml Webmineral
- ^ Hurlbut, Cornelius S.; Klein, Cornelis, 1985, Manual of Mineralogy, 20th ed., ISBN 0-471-80580-7
- Mineral Galleries Lưu trữ 2009-01-29 tại Wayback Machine