Charlie (lớp tàu ngầm)
Khái quát lớp tàu | |
---|---|
Xưởng đóng tàu | Gorky |
Bên khai thác |
|
Lớp trước | Tàu ngầm Đề án 675 |
Lớp sau | Tàu ngầm Đề án 949 |
Đặc điểm khái quát | |
Trọng tải choán nước |
|
Chiều dài |
|
Sườn ngang | 10m |
Mớn nước | 8m |
Động cơ đẩy | Một lò phản ứng được làm mát bằng nước sẽ cung cấp năng lượng cho hai tua bin hơi nước khoảng 11.185kW (15.000 mã lực) thông qua một trục. |
Tốc độ |
|
Tầm xa | Không biết được vì còn tùy vào lương thực dự trữ. |
Thủy thủ đoàn tối đa |
|
Vũ khí | 6 ống phóng ngư lôi 533mm, 12 ngư lôi. Hầu hết là loại ngư lôi nguyên tử chống tàu sức nổ 2 kiloton, 2 ngư lôi nguyên tử chống tàu ngầm Tsakra (SS-N-15 Starfish) sức nổ 15 kiloton, Đề án 670 còn kèm theo 4 ngư lôi chống tàu/tàu ngầm HE, Đề án 670M thì có 8 ngư lôi chống tàu/tàu ngầm hoặc kèm theo 24 quả thủy lôi AMD-1000. |
Tàu ngầm Đề án 670 Skat (tiếng Nga:Проекта 670 Скат) là loại tàu ngầm hạt nhân mang tên lửa hành trình của Liên Xô, NATO gọi loại tàu ngầm này là lớp Charlie. Tàu ngầm 670 Skat đầu tiên được hạ thủy lần đầu tại xưởng đóng tàu ở Gorkiy năm 1967, 10 chiếc tiếp theo được hạ thủy trong vòng 5 năm sau đó. Đề án 670 Skat có hai khoang chứa với bốn ống phóng tên lửa ở mỗi khoang ở mỗi bên (trước và sau) thông ra ngoài lớp vỏ chịu lực của tàu.
Các ống phóng được đóng kín bởi những cánh cửa sập lớn và được thiết kế để có thể sử dụng tên lửa chống tàu tầm trung P-120 Malakhit (SS-N-9 Siren). Tuy nhiên do việc nghiên cứu tên lửa bị chậm tiến độ nên đã thay thế bằng loại tên lửa tầm ngắn P-70 Ametist (SS-N-7 Starbright) phóng từ dưới mặt nước là loại được phát triển từ lửa P-15 Termit (SS-N-2 Styx) phóng trên bề mặt nước. Mục đích của loại tên lửa này là dùng để tấn công bất ngờ từ dưới nước các mục có giá trị cao trên mặt nước như tàu sân bay.
Từ năm 1972 đến 1979, sáu chiếc cải tiến gọi là Đề án 670M Skat-M (lớp Charlie II) đã được đóng. Đề án 670M cải tiến được đóng tại Gorkiy với khoản chiều dài được thêm 8 m (26 ft 3in) ở phần trước của tàu có gắn thêm các thiết bị định vị mục tiêu và hệ thống phóng cho loại tên lửa chống tàu tầm xa P-120 Malakhit.
Lớp Charlie III được thiết kế để bắn tên lửa chống tàu P-80 Zubr (SS-N-22 Sunburn) tuy nhiên nó chưa hề được đóng.
Tàu ngầm lớp Charlie I và II chỉ phải trở về cảng để tiếp tế khi chúng hết lương thực hay nước uống hoặc hết vũ khí. Mặc dù vậy với việc trang bị các vũ khí hiện đại cũng như hệ thống định vị sóng âm khiến nó trở nên hữu dụng trong việc chống tàu hay tác chiến chống lại các tàu ngầm khác.
Chiếc tàu cuối cùng lớp này được cho ra khỏi biên chế năm 1994, tuy nhiên một chiếc đã được cho Ấn Độ thuê từ 1988 đến 1991 và là mẫu để Ấn Độ có thể hiểu được cơ cấu hoạt động của tàu ngầm hạt nhân.
Được đóng
[sửa | sửa mã nguồn]- 11 tàu Đề án 670 đã được đóng từ 1968 đến 1973, K-43 được cho hải quân Ấn Độ thuê từ 1988 đến 1992 được biết đến như Chakra, K-429 bị chìm gần Petropavlovsk Kamchatsky với 16 người xấu số năm 1983 nhưng đã được kéo lên và sử dụng cho mục đích huấn luyện.
- 6 tàu Đề án 670M Skat-M được đóng từ 1973 đến 1980.
- Tất cả bị xử lý tiêu hủy từ 1990 đến 1994.
Tham khảo
[sửa | sửa mã nguồn]- Podvodnye Lodki, Yu.V. Apalkov, Sankt Peterburg, 2002, ISBN 5-8172-0069-4
- The Encyclopedia Of Warships, From World War Two To The Present Day, General Editor Robert Jackson.
Liên kết ngoài
[sửa | sửa mã nguồn]- Article in Russian from Encyclopedia of Ships Lưu trữ 2008-04-06 tại Wayback Machine
- Article in Russian Lưu trữ 2005-09-01 tại Wayback Machine
- Page in English from FAS
- http://www.defpro.com/daily/details/364/ Lưu trữ 2009-09-05 tại Wayback Machine