Bước tới nội dung

Lực lượng Vũ trang Serbia

Bách khoa toàn thư mở Wikipedia
(Đổi hướng từ Quân đội Serbia)
Serbian Armed Forces
Bojcка Србије
Huy hiệu của Lực lượng vũ trang Serbia
Thành lập6 tháng 5 năm 1830; 194 năm trước (1830-05-06)
Tổ chức hiện tại8/6/2006[1]
Các nhánh
phục vụ
 Lục quân Serbia
 Không quân Serbia
Sở chỉ huyBelgrade, Serbia
Lãnh đạo
Tổng tư lệnhTổng thống Aleksandar Vučić
Bộ quốc phòng SerbiaBratislav Gašić
Chief of the General StaffTướng Milan Mojsilović
Nhân lực
Tuổi nhập ngũ18 tuổi
Cưỡng bách tòng quânNo
Sẵn sàng cho
nghĩa vụ quân sự
2.848.803, age 15–49 (2022[5])
Đủ tiêu chuẩn cho
nghĩa vụ quân sự
2.250.554, 15–49 (2022[5]) tuổi 
Đạt tuổi nghĩa vụ
quân sự hàng năm
72.180 (2022[5])
Số quân tại ngũ22.500[2]
Số quân dự bị2.000 (active reserve)[3]
Số quân triển khai336[4]
Phí tổn
Ngân sách$2,08 tỉ (2024)[6]
Phần trăm GDP2,5 % (2024)[7]
Công nghiệp
Nhà cung cấp nội địaYugoimport SDPR (armored vehicles and artillery systems)
Zastava Arms (firearms)
Prvi Partizan (small-caliber ammunition)
Sloboda (large-caliber ammunition)
Krušik (large-caliber ammunition)
Milan Blagojević (gunpowder)
Utva (trainer aircraft and drones)
FAP (light utility vehicles)
Zastava Tervo (light utility vehicles)
Yumco (combat and service uniforms)
Mile Dragić (combat helmets and ballistic vests)
Nhà cung cấp nước ngoài France
 China
 Russia
 Germany
Xuất khẩu hàng năm449 triệu Đô la(2021)[8]

Quân đội Serbia (tiếng Serbia: Војска Србије, chuyển tự Vojska Srbije) là Lực lượng vũ trang của Serbia.

Tổng tư lệnh quân đội là Tổng thống Serbia, trong khi các quyết định, quyền điều hành, chính sách quốc phòng được đưa ra bởi Bộ quốc phòng Serbia. Cơ quan có thẩm quyền hoạt động cao nhất, chịu trách nhiệm triển khai và chuẩn bị các lực lượng vũ trang trong thời bình và chiến tranh, là Bộ Tổng tham mưu Serbia.

Lực lượng vũ trang Serbia bao gồm hai nhánh: Lục quân Serbia và Phòng không-Không quân Serbia.

Lịch sử

[sửa | sửa mã nguồn]

Serbia có truyền thống quân sự lâu đời có từ đầu thời trung cổ. Quân đội Serbia hiện đại có nguồn gốc từ Cách mạng Serbia bắt đầu vào năm 1804 với Cuộc nổi dậy Serbia lần thứ nhất chống lại sự chiếm đóng của Ottoman ở Serbia. Những chiến thắng trong các trận chiến Ivankovac (1805), Mišar (tháng 8 năm 1806), Deligrad (tháng 12 năm 1806) và Belgrade (tháng 11–tháng 12 năm 1806), đã dẫn đến việc thành lập Công quốc Serbia vào năm 1817. Cuộc nổi dậy Serbia lần thứ hai diễn ra sau đó vào năm 1815–1817 đã dẫn đến nền độc lập hoàn toàn và sự công nhận Vương quốc Serbia và làm suy yếu sự thống trị của Đế chế Ottoman ở Balkan. Vào tháng 11 năm 1885, Chiến tranh Serbia-Bulgaria xảy ra sau khi Bulgaria thống nhất và dẫn đến chiến thắng của Bulgaria. Năm 1912, Chiến tranh Balkan lần thứ nhất (1912–1913) nổ ra giữa Đế chế Ottoman và Liên minh Balkan (Serbia, Hy Lạp, Montenegro và Bulgaria). Chiến thắng của Liên đoàn Balkan trong Trận Kumanovo (tháng 10 năm 1912), Trận Prilep (tháng 11 năm 1912), Trận Monastir (tháng 11 năm 1912), Trận Adrianople (tháng 11 năm 1912 đến tháng 3 năm 1913) và Cuộc vây hãm Scutari (tháng 10 năm 1912 đến tháng 4 năm 1913) đã dẫn đến thất bại của Đế chế Ottoman, Đế chế Ottoman đã mất hầu hết các vùng lãnh thổ Balkan còn lại theo Hiệp ước London (tháng 5 năm 1913). Ngay sau đó, Chiến tranh Balkan lần thứ hai (tháng 6 đến tháng 8 năm 1913) nổ ra khi Bulgaria, không hài lòng với việc phân chia lãnh thổ, đã tuyên chiến với các đồng minh cũ của mình là Serbia và Hy Lạp. Sau một loạt thất bại, Bulgaria đã yêu cầu đình chiến và ký Hiệp ước Bucharest năm 1913, chính thức chấm dứt chiến tranh.

Nền độc lập và ảnh hưởng ngày càng tăng của Serbia đã đe dọa nước láng giềng Áo-Hung dẫn đến cuộc khủng hoảng Bosnia năm 1908–09. Do đó, từ năm 1901, tất cả nam giới Serbia trong độ tuổi từ 21 đến 46 đều phải chịu trách nhiệm tổng động viên.[9] Sau Vụ ám sát Đại vương công Franz Ferdinand của Áo vào tháng 6 năm 1914, Áo-Hung đã buộc tội người Serbia và tuyên chiến với Serbia từ tháng 7 năm 1914, đánh dấu sự khởi đầu của Chiến tranh thế giới thứ nhất 1914–1918. Lực lượng Serbia đã đẩy lùi ba cuộc xâm lược liên tiếp của Áo vào năm 1914, nhưng cuối cùng đã bị lực lượng Liên minh Trung tâm áp đảo (tháng 10–tháng 11 năm 1915) và buộc phải rút lui qua Albania (1915–1916) đến đảo Corfu của Hy Lạp (1915–1916).

Hoạt động quân sự của Serbia sau Thế chiến thứ nhất diễn ra trong bối cảnh của nhiều đội quân Nam Tư khác nhau cho đến khi Nam Tư tan rã vào những năm 1990 và Serbia trở thành một quốc gia độc lập vào năm 2006.

Tổ chức

[sửa | sửa mã nguồn]

Lực lượng vũ trang Serbia được chỉ huy bởi quân đoàn sĩ quan cao cấp của Bộ Tổng tham mưu. Bộ Tổng tham mưu được lãnh đạo bởi Tổng tham mưu trưởng. Tổng thống là Tổng tư lệnh bổ nhiệm Tổng tham mưu trưởng theo đề xuất của Bộ trưởng Quốc phòng.[10]Tổng tham mưu trưởng hiện tại là Tướng Milan Mojsilović.

Cấu trúc của quân đội Serbia

Các nhánh của Lực lượng vũ trang

[sửa | sửa mã nguồn]

Lực lượng vũ trang Serbia gồm hai nhánh chính là

Lục quân Serbia

[sửa | sửa mã nguồn]

Lục quân Serbia (Kopnena vojska Srbije - KoV) là lực lượng tác chiến trên bộ của quân đội Serbia, và cũng là lực lượng lớn nhất bao gồm: bộ binh, thiết giáp, pháo binh, công binh và Đội giang thuyền. Lực lượng Lục quân có nhiệm vụ bảo vệ chủ quyền và toàn vẹn lãnh thổ của Serbia; tham gia vào các hoạt động gìn giữ hòa bình; và cung cấp viện trợ nhân đạo và cứu trợ thiên tai.

Không quân và Phòng không Serbia

[sửa | sửa mã nguồn]

Không quân và Phòng không Serbia ( Ratno vazduhoplovstvo i protivvazduhoplovna odbrana Vojske Srbije - RViPVO ) là thành phần phòng không và không quân của lực lượng vũ trang Serbia bao gồm: các đơn vị không quân, phòng không, giám sát và trinh sát. Nhiệm vụ của nó là bảo vệ không phận Serbia, và cùng với Lục quân bảo vệ toàn vẹn lãnh thổ.

Cơ cấu chỉ huy

[sửa | sửa mã nguồn]

Trang bị

[sửa | sửa mã nguồn]

Lực lượng vũ trang Serbia được trang bị đa dạng, bao gồm cả vũ khí thế hệ cũ của Nam Tư và Liên Xô (có từ những năm 1980 và thậm chí 1970) và vũ khí thiết bị mới, được sản xuất trong nước từ các nhà thầu quốc phòng Serbia hoặc mua từ các nhà sản xuất nước ngoài (các nhà cung cấp chính là Pháp, Trung Quốc, Nga và ở mức độ thấp hơn là Đức).

Hiện tại Quân đội Serbia đang được biên chế: 242 xe tăng (30 xe tăng T-72 B1MS của Nga và 212 xe tăng M-84 do Nam Tư sản xuất), 90 pháo tự hành (18 pháo tự hành Nora B-52 do trong nước sản xuất và 72 pháo tự hành 2S1 Gvozdika do Liên Xô sản xuất ), 60 phản lực đa nòng M-77 Oganj do Nam Tư sản xuất, 320 xe chiến đấu bộ binh BVP M-80, 37 xe bọc thép chở quân Lazar (sản xuất trong nước), hơn 100 xe MRAP và các xe bọc thép khác (bao gồm 43 xe Miloš do trong nước sản xuất) cũng như 18 hệ thống tên lửa phòng không tầm ngắn PASARS-16 (cũng do Serbia tự sản xuất) (được trang bị tổng cộng 50 tên lửa Mistral 3 của Pháp).[11][12]

Không quân và Phòng không Serbia đang được biên chế: 13 máy bay chiến đấu Mikoyan MiG-29 (10 chiếc đã được hiện đại hóa theo tiêu chuẩn SM và được trang bị tên lửa Vympel R-77),[13] 13 máy bay chiến đấu nội địa Soko J-22 Orao, 2 máy bay vận tải C-295,[14] 15 máy bay trực thăng chiến đấu Mi-35 của Nga (được trang bị tên lửa chống tăng 9M120 Ataka-V),[15] 13 trực thăng Mi-17 đa dụng, 6 (và thêm 9 chiếc đang đặt hàng) trực thăng đa dụng H145M của Đức, 6 máy bay không người lái CH-92 của Trung Quốc, 4 khẩu đội tên lửa phòng không tầm xa HQ-22 của Trung Quốc,[16] một khẩu đội phòng không (và đang đặt mua thêm 2 khẩu đội) Tổ hợp tên lửa phòng không tầm trung Pantsir của Nga.

Trong vài năm trở lại đây, Serbia đã bắt tay vào chương trình hiện đại hóa và mua sắm thiết bị đầy tham vọng. Nhưng Bộ Quốc phòng Serbia vẫn ưu tiên sử dụng các loại vũ khí nội địa như: xe bọc thép chở quân Lazar, xe bộ binh bọc thép hạng nhẹ BOV M16 Miloš, hệ thống pháo tự hành Nora B-52, máy bay huấn luyện Lasta 95. Hoạt động mua sắm trang thiết bị từ nước ngoài lớn nhất gần đây bao gồm: hệ thống tên lửa phòng không HQ-22 của Trung Quốc, trực thăng đa dụng Airbus H145M, trực thăng tấn công Mi-35 của Nga cũng như mua các loại tên lửa và radar khác nhau ( hệ thống radar tầm xa và tầm trung Ground Master 400 và Ground Master 200 của Pháp, tên lửa đất đối không Mistral của Pháp cho xe thiết giáp phòng không PASARS; tên lửa không đối không ngoài tầm nhìn Vympel R-77 của Nga cho máy bay chiến đấu MiG-29, tên lửa chống tăng 9M120 Ataka-V cho trực thăng tấn công Mi-35 và tên lửa chống tăng có điều khiển 9M133 Kornet)

Các đợt mua sắm thiết bị quân sự quan trọng cũng được lên kế hoạch trong tương lai gần. Việc mua 12 máy bay chiến đấu đa năng Rafale mới của Pháp gần đây đã được công bố với mục đích thay thế MiG-29 sẽ được đưa vào sử dụng cho đến cuối những năm 2020.[17]

Nhân lực

[sửa | sửa mã nguồn]

Lực lượng vũ trang Serbia bao gồm toàn bộ là quân nhân chuyên nghiệp và tình nguyện sau khi nghĩa vụ quân sự bắt buộc bị đình chỉ vào năm 2011.

Lực lượng sẵn sàng chiến đấu

[sửa | sửa mã nguồn]

Quân số thường trực của quân đội Serbia là 22.500 người: 4.200 sĩ quan, 6.500 hạ sĩ quan, 8.200 quân nhân đang tại ngũ và 3.500 nhân viên dân sự.[2]

Lực lượng dự bị động viên

[sửa | sửa mã nguồn]

Lực lượng dự bị bao gồm lực lượng dự bị chủ động và lực lượng dự bị thụ động (tức là thời chiến). Lực lượng dự bị thường trực có 2.000 người và họ thường được yêu cầu thực hiện 45 ngày nghĩa vụ quân sự mỗi năm.[3] Họ được phân công vào một trong bốn lữ đoàn dự bị (Lữ đoàn Banat, Lữ đoàn Belgrade, Lữ đoàn Timok và Lữ đoàn Rasina), mỗi lữ đoàn đều có khả năng triển khai nhanh chóng trong trường hợp chiến tranh. Tổng số lực lượng dự động viên động khoảng 1,7 triệu công dân đã qua đào tạo hoặc có kinh nghiệm quân sự và chỉ được huy động trong trường hợp chiến tranh.[3]

Chú thích

[sửa | sửa mã nguồn]
  1. ^ “Istorijat Vojske Srbije”. Vojska Srbije. Truy cập ngày 27 tháng 6 năm 2023.
  2. ^ a b “Brojnost vojski Srbije, Hrvatske, BiH, Crne Gore i Severne Makedonije u 2021”. 28 tháng 12 năm 2021.
  3. ^ a b c “Iz stroja pravo na posao” (bằng tiếng Serbia). Večernje novosti. 22 tháng 3 năm 2013. Truy cập ngày 24 tháng 5 năm 2014.
  4. ^ “Министарство одбране Републике Србије - Актуелне мултинационалне операције”.
  5. ^ https://publikacije.stat.gov.rs/G2023/Pdf/G20234003.pdf [liên kết URL chỉ có mỗi PDF]
  6. ^ “Vojni budžet Srbije u 2024. : Više para za plate, manje za naoružanje i obuku”. 24 tháng 10 năm 2023.
  7. ^ https://rtv.rs/sr_lat/politika/skupstina-usvojila-rebalans-budzeta-za-ovu-godinu-povecan-za-132-5-milijarde-dinara_1572113.html
  8. ^ “Gde Srbija izvozi naoružanje i vojnu opremu - objavljen godišnji izveštaj”. 20 tháng 4 năm 2023.
  9. ^ “Serbian Army in WWI”. Bản gốc lưu trữ ngày 23 tháng 3 năm 2009.
  10. ^ “Law on the Serbian Army”.
  11. ^ “[PARTNER 2021] Sve o oklopnim premijerama, modernizacijama i modifikacijama”. 22 tháng 10 năm 2021.
  12. ^ “Vučić: Kupili smo 18 sistema Mistral sa 50 raketa”. 16 tháng 7 năm 2019.
  13. ^ “Srpski MiG-ovi 29 biće naoružani raketama vazduh-vazduh R-77”. 27 tháng 4 năm 2022.
  14. ^ “RTS :: Društvo :: Vojsci Srbije isporučen i drugi transporter, zamena za čuveni sovjetski "Antonov-26". www.rts.rs. Truy cập ngày 12 tháng 3 năm 2024.
  15. ^ Vojinovic, Petar (23 tháng 11 năm 2023). “[POSLEDNJA VEST] Na Batajnici prikazani helikopteri Mi-35P nabavljeni sa Kipra, kupljena 22 Talesova radara, najavljena kupovina još Erbasovih helikoptera”. Tango Six (bằng tiếng Serbia). Truy cập ngày 12 tháng 3 năm 2024.
  16. ^ “[EKSKLUZIVNO] Prvi detalji i opis karakteristika: Prišli smo većini vozila u sastavu jedne baterije PVO sistema FK-3”. 2 tháng 5 năm 2022.
  17. ^ “Vučić: Srbija pregovara o kupovini dve eskadrile Rafala već godinu dana, nabavlja borbene bespilotne letelice Bajraktar, kineske borbene bespilotne letelice CH-95, u utorak ili sredu "predstavljamo ponos srpske vojske". 9 tháng 4 năm 2022.

Tham khảo

[sửa | sửa mã nguồn]
[sửa | sửa mã nguồn]