Bước tới nội dung

Patrice de Mac Mahon

Bách khoa toàn thư mở Wikipedia
(Đổi hướng từ Patrice de MacMahon)
Patrice de MacMahon
The duc de Magenta, k. 1890
Chức vụ
Nhiệm kỳ24 tháng 5 năm 1873 – 30 tháng 1 năm 1879
Tiền nhiệmAdolphe Thiers
Kế nhiệmJules Grévy
Nhiệm kỳ1 tháng 9 năm 1864 – 27 tháng 7 năm 1870
Tiền nhiệmÉdmond de Martimprey
Kế nhiệmLouis Durrieu
Nhiệm kỳ24 tháng 6 năm 1864 – 4 tháng 9 năm 1870
Thông tin cá nhân
Quốc tịchngười Pháp
Sinh(1808-06-13)13 tháng 6 năm 1808
Sully, Saône-et-Loire, Đệ Tam Cộng hòa Pháp
Mất17 tháng 10 năm 1893(1893-10-17) (85 tuổi)
Montcresson, Loiret, Đệ Tam Cộng hòa Pháp
Đảng chính trịMiscellaneous right (Chủ nghĩa bảo hoàng)
Con cáiMarie Armand Patrice de Mac Mahon
(1855–1927)
Eugene de Mac Mahon
(1857–1907)
Emmanuel de Mac Mahon [fr]
(1859–1930)
Marie de Mac Mahon
(1863–1954)
Bá tước phu nhân xứ Pinnes
Học vấnTrường quân sự đặc biệt Saint-Cyr
Chữ ký
Binh nghiệp
ThuộcBourbon phục hoàng Bourbon phục hoàng
Bản mẫu:Country data July Monarchy Quân chủ tháng Bảy
Đệ Nhị Đế chế Pháp Đệ Nhị Đế chế Pháp
Phục vụQuân đội Pháp
Năm tại ngũ1827–1873
Cấp bậcĐội trưởng
Chỉ huy
Trung tá
Tướng quân
Thống chế Pháp
Đơn vị Binh đoàn Lê dương Pháp
Lt. colonel
Trung đoàn bộ binh Lê dương số 2
2ème R.E.L.E/2e RE
(1843–1845)
Chỉ huy Quân đoàn I
Quân đội Rhein (1870)
Tổng tư lệnh
Quân đội Châlons (1870)
Tham chiếnChinh phục Algeria (1827–1857)

Chiến tranh Krym (1853–1856)

Chiến tranh Pháp-Áo (1859)

Chiến tranh Pháp-Phổ (1870–1871)

Công xã Paris (1871)

Marie Edme Patrice Maurice de MacMahon, Hầu tước xứ MacMahon,[1] Công tước xứ Magenta (phát âm tiếng Pháp: ​[patʁis də makma.ɔ̃]; 13 tháng 6 năm 1808 – 17 tháng 10 năm 1893), là một tướng quân và chính trị gia người Pháp, cấp bậc cao nhất ông từng đảm nhiệm trong quân đội Pháp chính là Thống chế. Ông giữ chức Quốc trưởng Pháp từ 1873 đến 1875 và là Tổng thống Pháp từ 1875 đến 1879.

MacMahon lãnh đạo quân đội Pháp trong cuộc chiến chống lại quân Đức năm 1870. Ông bị mắc kẹt và bị thương trong Trận Sedan vào tháng 9 năm 1870, một phần vì kế hoạch chiến lược bối rối và thiếu quyết đoán. Quân Pháp, trong đó có MacMahon và Hoàng đế Napoléon III, đã đầu hàng quân Đức. Thế là nước Pháp thua trận và Hoàng đế phải sống lưu vong. Sau khi khỏi bệnh, MacMahon được bổ nhiệm làm người đứng đầu quân đội Versailles, lực lượng đã đàn áp cuộc nổi dậy Công xã Paris vào tháng 5 năm 1871 và tạo tiền đề cho sự nghiệp chính trị của ông sau này.

Theo David Bell, sau khi Adolphe Thiers từ chức vào tháng 5 năm 1873, đa số phe bảo hoàng trong Quốc hội đã bầu MacMahon làm lãnh đạo mới, với hy vọng rằng ông sẽ giữ vững quyền lực nội chính Pháp cho đến khi người tuyên bố vương vị của Vương tộc Bourbon sẵn sàng khôi phục ngai vàng. Tuy nhiên, lập trường chính thống cực đoan của Henri d'Artois, Bá tước xứ Chambord khiến việc phục hoàng về mặt chính trị là không thể. MacMahon từ chối hỗ trợ các nỗ lực ép buộc Quốc hội. Trong trường hợp không có sự ủng hộ hoàn toàn của ông thì không có cách nào đạt được chế độ quân chủ bằng các biện pháp ngoài nghị viện. Cánh hữu không còn lựa chọn nào khác ngoài việc giữ MacMahon tại vị để câu giờ và làm rào cản cho cánh tả bằng cách trấn áp các kích động cực đoan và theo đuổi các chính sách khôi phục "trật tự đạo đức" cho đất nước. Vào tháng 11 năm 1873, ông được bầu làm Tổng thống với nhiệm kỳ 7 năm. Tuy nhiên, sự chia rẽ giữa những người theo chủ nghĩa bảo hoàng đã khiến MacMahon rơi vào tình thế khó khăn chính trị mà ông chưa chuẩn bị sẵn sàng, cố gắng giữ chân Đảng Cộng hòa mà không có quyền lực xác định hoặc nguồn gốc hợp pháp rõ ràng, không có đa số rõ ràng trong quốc hội hoặc chính phủ, và không có sử dụng vũ lực. Năm 1874, do yêu cầu của những người theo chủ nghĩa Bonaparte, MacMahon kêu gọi cải cách hiến pháp. Để đảm bảo sự hoà hợp, điều này đã dẫn đến một hệ thống gồm Tổng thống và Thượng viện được bầu gián tiếp. Năm 1876, MacMahon phải chấp nhận chính phủ của những người theo Đảng Cộng hòa ôn hòa. Tuy nhiên, vào năm 1877, MacMahon cách chức Simon và triệu hồi Công tước de Broglie. Chính phủ mới bị giải tán trong một cuộc bỏ phiếu bất tín nhiệm. Những người bảo thủ hy vọng khai thác nền báo chí có ảnh hưởng, sự bảo trợ mạnh mẽ và thiết quân luật của họ để ép buộc cử tri. Họ đã thất bại trong cuộc tổng tuyển cử vào tháng 10 năm 1877, khi đảng Cộng hòa giành được đa số phiếu bất chấp những thách thức từ cánh hữu. Vào tháng 1 năm 1879, Đảng Cộng hòa buộc MacMahon phải từ chức. Ông qua đời năm 1893, trong khi Đảng Cộng hòa coi ông là mối nguy hiểm cho nền Cộng hòa và những người theo chủ nghĩa quân chủ cứng rắn coi ông là một kẻ vụng về đã xử lý sai giấc mơ phục hoàng của họ.[2]

MacMahon là một người Công giáo bảo thủ sùng đạo và là một người theo chủ nghĩa truyền thống, coi thường chủ nghĩa xã hội và cực kỳ không tin tưởng vào những người theo chủ nghĩa Cộng hòa thế tục. Ông giữ nhiệm vụ của mình với tư cách là người bảo vệ trung lập của Hiến pháp và bác bỏ những đề xuất về một cuộc đảo chính theo chế độ quân chủ, nhưng từ chối gặp Léon Gambetta, thủ lĩnh của Đảng Cộng hòa. Ông chuyển sang một hệ thống nghị viện trong đó quốc hội lựa chọn chính phủ cầm quyền của nền Đệ Tam Cộng hòa Pháp, nhưng ông cũng nhất quyết yêu cầu một thượng viện. Sau đó, ông đã giải tán Hạ viện, dẫn đến sự phẫn nộ của công chúng và chiến thắng bầu cử của Đảng Cộng hòa. Ngay sau đó MacMahon từ chức và rút lui về cuộc sống riêng tư.

Nguồn gốc gia đình

[sửa | sửa mã nguồn]

Gia tộc MacMahon có nguồn gốc từ Ireland. Họ là Lãnh chúa xứ Corcu Baiscind[3] ở đảo Ireland và là hậu duệ của Mahon, con trai của Muirchertach Ua Briain, Vua tối cao của Ireland.[4][5] Sau khi mất phần lớn đất đai trong vụ tịch thu của chính phủ Oliver Cromwell theo Đạo luật định cư Ireland năm 1652, một chi nhánh của nhà MacMahon đã chuyển đến Limerick một thời gian. Họ ủng hộ Vua James II bị phế truất trong Cách mạng Vinh quang năm 1688 và định cư ở Vương quốc Pháp dưới thời trị vì sau đó của Vua William III.[6] Họ nộp đơn xin nhập quốc tịch Pháp vào năm 1749; Sau khi gia đình được định cư ở Pháp, tước vị quý tộc của họ ở Ireland đã được công nhận trong quý tộc Pháp thông qua chứng thư của Vua Louis XV.

Là một gia đình quân nhân (14 thành viên trong gia tộc Mac Mahon phục vụ trong Quân đội), họ định cư ở Autun, Burgundy, tại Château de Sully, nơi Patrice de Mac Mahon sinh ngày 13 tháng 6 năm 1808, ông là người con thứ 16 và là con thứ 2 của Nam tước Maurice-François de Mac Mahon (1754–1831), Nam tước xứ Sully, Bá tước de MacMahon, de Charnay, và Pélagie de Riquet de Caraman (1769–1819), hậu duệ của Pierre-Paul Riquet.

Patrice de MacMahon (như ông thường được biết đến trước khi được phong công tước theo đúng nghĩa của mình) sinh ra ở Sully gần Autun, thuộc tỉnh Saône-et-Loire. Ông nội của ông, Lãnh chúa Jean-Baptiste de MacMahon,[7] được phong Hầu tước de MacMahon và Hầu tước d'Éguilly thứ nhất (từ vợ ông là Charlotte Le Belin, Dame d'Éguilly) bởi Vua Louis XV, và gia đình ở Pháp của ông đã đi theo phái bảo hoàng.

Tham khảo

[sửa | sửa mã nguồn]
  1. ^ Gabriel de Broglie (2000). Mac Mahon. Perrin. tr. 17.
  2. ^ David Bell, et al. eds. Biographical dictionary of French political leaders since 1870 (1990) pp 257-258.
  3. ^ Family History Ireland (22 tháng 2 năm 2016). “Marshal MacMahon and the Ottomans”.
  4. ^ Brian Boru and The Battle of Clontarf, Seán Duffy, page 100, page 273
  5. ^ John O'Hart,Irish Pedigrees or the Origin and Stem of the Irish Nation, Volume 1, 1892, pages 148–150, https://archive.org/details/irishpedigreesor_01ohar/page/150
  6. ^ Firinne, D.H. and Eugene O'Curry, Life of Marshal MacMahon, Duke of Magenta. (The "Irishman" Office, Dublin, 1859) pp. 5–6.
  7. ^ Lord Messier, Knight Lord overlord of the towns, countries, castles and lands of Seenish, Inisch, Arovan, Ylan-Magrath, Ing, located in the County of Clare and the island of Fymes, of the city and not of Ryencanagh, and several lands in Limerick County, 1st Marquis of Éguilly.

Further reading

[sửa | sửa mã nguồn]
  • Brogan, D.W. France Under the Republic: The Development of Modern France (1870–1939) (1940) pp 127–43.
  • Derfler, Leslie. President and Parliament: A Short History of the French Presidency (University Presses of Florida. 1983)
  • Wawro, Geoffrey. The War Scare of 1875: Bismarck and Europe in the Mid-1870s (2012).

Liên kết ngoài

[sửa | sửa mã nguồn]


Các tổng thống Cộng hòa Pháp
18 48 18 52 18 71 18 73 18 79 18 87 18 94 18 95 18 99
Louis-Napoléon
Bonaparte
Adolphe
Thiers
Patrice
de Mac-Mahon
Jules
Grévy
Sadi
Carnot
Jean
Casimir-Perier
Félix
Faure
18 99 19 06 19 13 19 20 19 20 19 24 19 31 19 32 19 40 19 47
Émile
Loubet
Armand
Fallières
Raymond
Poincaré
Paul
Deschanel
Alexandre
Millerand
Gaston
Doumergue
Paul
Doumer
Albert
Lebrun
19 47 19 54 19 59 19 69 19 74 19 81 19 95 20 07 20 12 20 17 ...
Vincent
Auriol
René
Coty
Charles
de Gaulle
Georges
Pompidou
Valéry
Giscard d'Estaing
François
Mitterrand
Jacques
Chirac
Nicolas
Sarkozy
François
Hollande
Emmanuel
Macron
  

Lịch sử PhápDanh sách quân chủ PhápTổng thống Pháp