Bước tới nội dung

Lee Ji-ah

Bách khoa toàn thư mở Wikipedia
(Đổi hướng từ Kim Sang-eun)
Lee Ji-ah
Lee vào tháng 3 năm 2023
SinhKim Sang-eun
6 tháng 8, 1978 (46 tuổi)[1]
Songpa District, Seoul, South Korea[2]
Tên khác
  • Kim Ji-ah
  • E Ji-ah
Học vịArtCenter College of Design (Thiết kế đồ họa)
Nghề nghiệpDiễn viên
Năm hoạt động2007–nay
Người đại diệnBH Entertainment [ko]
Phối ngẫu
Seo Taiji
(cưới 1997⁠–⁠2006)
Gia đìnhKim Soon-heung [ko] (Ông nội)
Tên tiếng Triều Tiên
Hangul
김지아
Romaja quốc ngữGim Ji-a
McCune–ReischauerKim Chia
Tên khai sinh
Hangul
김상은
Romaja quốc ngữGim Sang-eun
McCune–ReischauerKim Sangŭn
Nghệ danh
Hangul
이지아
Hanja
Romaja quốc ngữI Ji-a
McCune–ReischauerI Chia
Chữ ký
Signature of Lee Ji-ah

Kim Sang-eun (Tiếng Hàn김상은; sinh ngày 6 tháng 8 năm 1978), thường được biết đến với nghệ danh Lee Ji-ah, là một nữ diễn viên người Hàn Quốc. Cô trở nên nổi tiếng với vai diễn trong Thái vương tứ thần ký năm 2007 và tham gia nhiều bộ phim truyền hình như Beethoven Virus (2008), Âm mưu Athena: Nữ thần chiến tranh (2010), Cuộc chiến thượng lưu (2020–21).

Tiểu sử

[sửa | sửa mã nguồn]

Lee Ji-ah sinh vào ngày 6 tháng 8 năm 1978 với tên khai sinh là Kim Sang-eun tại Songpa-gu, Seoul, Hàn Quốc. Ông nội của cô là nhà sư phạm Kim Soon-heung, một trong những người bảo trợ cho việc thành lập Trường Trung học Nghệ thuật Seoul, đồng thời là hiệu trưởng của Đại học Kyonggi. Cha của cô là một doanh nhân. Năm cô 2 tuổi, gia đình cô di cư sang Hoa Kỳ và định cư tại đây trong 10 năm.

Cô theo học chuyên ngành thiết kế thời trang tại ArtCenter College of Design ở Pasadena.

Trong một chuyến thăm ngắn ngủi đến Hàn Quốc vào năm 2004, cô ra mắt trong ngành giải trí sau khi xuất hiện trong một quảng cáo truyền hình của LG Telecom với nam diễn viên Bae Yong-joon.

Sự nghiệp

[sửa | sửa mã nguồn]

2007–2013

[sửa | sửa mã nguồn]

Năm 2007, Lee Ji-ah bắt đầu sự nghiệp diễn xuất thông qua bộ phim truyền hình giả tưởng Thái vương tứ thần ký với Bae Yong-joon. Quy trình sản xuất với mức chi phí lớn và chất lượng cao nhanh chóng đưa Lee Ji-ah trở nên nổi tiếng.

Sau đó, cô vào vai chính trong Beethoven Virus năm 2008, trong đó Lee Ji-ah vào vai một nghệ sĩ vĩ cầm được chẩn đoán mắc một căn bệnh dẫn đến mất thính giác hoàn toàn.

Năm 2009, cô được chọn tham gia bộ phim truyền hình Tạp chí thời trang, dựa trên cuốn tiểu thuyết cùng tên năm 2008 được lấy cảm hứng từ The Devil Wears Prada. Lee Ji-ah vào vai một trợ lý chăm chỉ cho một biên tập viên tạp chí thời trang theo chủ nghĩa hoàn hảo do Kim Hye-soo thủ vai.

Cuối năm 2009, cô tham gia bộ phim Telecinema, trong đó có 7 phần. Bộ phim quy tụ nhiều ngôi sao, đạo diễn Hàn Quốc và biên kịch Nhật Bản. Mỗi phần của Telecinema đều được phát hành tại các rạp chiếu phim, đồng thời được phát sóng trên kênh truyền hình SBS.

Lee Ji-ah sau đó đóng chung với Jung Woo-sung, Cha Seung-wonSoo Ae trong bộ phim truyền hình điệp viên Âm mưu Athena: Nữ thần chiến tranh năm 2010, đây là phần ngoại truyện của bộ phim Mật danh Iris năm 2009.

Năm 2011, cô vào vai chính trong bộ phim truyền hình Tình cuồng si với vai một cảnh sát xấu tính đem lòng yêu một triệu phú trẻ giả làm nhân viên giữ xe.

Sau khi hợp đồng 5 năm của Lee Ji-ah với KeyEast Entertainment của Bae Yong-joon kết thúc vào ngày 31 tháng 12 năm 2011, cô ký hợp đồng với Will Entertainment vào tháng 3 năm 2012. Năm 2013, cô đảm nhận vai chính trong bộ phim Ba đời chồng.

2014–nay

[sửa | sửa mã nguồn]

Tháng 4 năm 2014, Lee Ji-ah ký hợp đồng với HB Entertainment.

Tiếp theo là hợp đồng với Maybach Film Productions của Hollywood với tư cách là nhà biên kịch.

Năm 2015, Lee Ji-ah vào vai chính trong bộ phim giả tưởng Snow Lotus Flower dài 2 tập.

Năm 2016, Lee Ji-ah trở lại màn ảnh rộng trong bộ phim hành động kinh dị Musudan.Lỗi chú thích: Không có </ref> để đóng thẻ <ref> |}

Phim truyền hình

[sửa | sửa mã nguồn]
Năm Tên Vai Kênh
2007 Thái vương tứ thần ký Sujini / Saeoh MBC
2008 Beethoven Virus Du Ru-mi
2009 Tạp chí thời trang Lee Seo-jung SBS
2010 Âm mưu Athena: Nữ thần chiến tranh Han Jae-hee
2011 Tình cuồng si Cha Bong-sun MBC
2013 Ba đời chồng Oh Eun-soo SBS
2015 Drama Special: Snow Lotus Flower Han Yeon-woo
2018 Ông chú của tôi Kang Yoon-hee tvN
Thám tử ma Sun Woo-hye KBS2
2020–21 Cuộc chiến thượng lưu Shim Su-ryeon SBS
2023 Pandora: Thiên đường giả tạo Hong Tae Ra/ Oh Young tvN

Chương trình truyền hình

[sửa | sửa mã nguồn]
Năm Tên Kênh Vai Ghi chú Nguồn
2021 The Sea I Desire JTBC Thành viên cố định Bếp trưởng [3]

Video âm nhạc

[sửa | sửa mã nguồn]
Năm Tên Nghệ sĩ
2010 Please Come Back to Me Vibe

Danh sách đĩa nhạc

[sửa | sửa mã nguồn]
Tên Năm Album
Đĩa đơn
"Love Virus" 2008 Đĩa đơn không có trong album
"Cupcake and Alien" 2009
"Vampire Romance" 2010
Góp giọng
"So Much"
(Super Sta hợp tác với Baby Boy's Soul và Lee Ji-ah)
2008 Đĩa đơn không có trong album

Giải thưởng và đề cử

[sửa | sửa mã nguồn]
Năm Giải thưởng Hạng mục Đề cử Kết quả Nguồn
2007 MBC Drama Awards Nữ diễn viên mới xuất sắc nhất Thái vương tứ thần ký Đoạt giải
Nữ diễn viên nổi tiếng nhất Đoạt giải
Cặp đôi xuất sắc nhất (với Bae Yong-joon) Đoạt giải
2008 Baeksang Arts Awards lần thứ 44 Nữ diễn viên mới xuất sắc nhất thể loại phim truyền hình Đoạt giải
MBC Drama Awards Nữ diễn viên xuất sắc nhất Beethoven Virus Đề cử
2009 SBS Drama Awards Nữ diễn viên xuất sắc nhất thể loại phim truyền hình đặc biệt Tạp chí thời trang Đề cử
2011 Nữ diễn viên xuất sắc nhất thể loại phim truyền hình kế hoạch đặc biệt Âm mưu Athena: Nữ thần chiến tranh Đề cử
2014 Korea Drama Awards lần thứ 7 Nữ diễn viên xuất sắc nhất Ba đời chồng Đề cử
APAN Star Awards lần thứ 3 Nữ diễn viên xuất sắc nhất thể loại phim truyền hình dài tập Đề cử
SBS Drama Awards Đề cử
2020 Nữ diễn viên xuất sắc nhất thể loại phim truyền hình nhiều tập Cuộc chiến thượng lưu Đoạt giải

Chú thích

[sửa | sửa mã nguồn]
  1. ^ “user @heyrommy on Instagram's post”. Instagram. Bản gốc lưu trữ ngày 24 tháng 12 năm 2021. Truy cập ngày 6 tháng 8 năm 2020.
  2. ^ “이지아”. Marie Claire Korea (bằng tiếng Hàn). Truy cập ngày 11 tháng 12 năm 2023.
  3. ^ Kang Hyo-jin (ngày 25 tháng 5 năm 2021). “이지아·이동욱·윤종신·김고은...JTBC 새 예능 '바라던 바다' 출연[공식]”. Sport TV News (bằng tiếng Hàn). Truy cập ngày 25 tháng 5 năm 2021.