Igor Ivanovich Belanov
Bài này không có nguồn tham khảo nào. |
Thông tin cá nhân | |||||||||||||||||
---|---|---|---|---|---|---|---|---|---|---|---|---|---|---|---|---|---|
Tên đầy đủ | Igor Ivanovich Belanov | ||||||||||||||||
Ngày sinh | 25 tháng 9, 1960 | ||||||||||||||||
Nơi sinh | Odessa, CHXNCHXV Ukraina, Liên Xô | ||||||||||||||||
Chiều cao | 1,74 m (5 ft 8+1⁄2 in) | ||||||||||||||||
Vị trí | Tiền vệ tấn công | ||||||||||||||||
Sự nghiệp cầu thủ trẻ | |||||||||||||||||
Năm | Đội | ||||||||||||||||
1973–1978 | Chornomorets Odessa | ||||||||||||||||
Sự nghiệp cầu thủ chuyên nghiệp* | |||||||||||||||||
Năm | Đội | ST | (BT) | ||||||||||||||
1979–1980 | SKA Odessa | 68 | (16) | ||||||||||||||
1981–1984 | Chornomorets Odessa | 116 | (26) | ||||||||||||||
1985–1989 | Dynamo Kyiv | 121 | (39) | ||||||||||||||
1989–1990 | Borussia M'gladbach | 24 | (4) | ||||||||||||||
1991–1995 | Eintracht Braunschweig | 67 | (21) | ||||||||||||||
1995–1996 | Chornomorets Odessa | 3 | (1) | ||||||||||||||
1996–1997 | Metalurh Mariupol | 5 | (4) | ||||||||||||||
Tổng cộng | 404 | (111) | |||||||||||||||
Sự nghiệp đội tuyển quốc gia | |||||||||||||||||
Năm | Đội | ST | (BT) | ||||||||||||||
1985–1990 | Liên Xô | 33 | (8) | ||||||||||||||
Thành tích huy chương
| |||||||||||||||||
*Số trận ra sân và số bàn thắng ở câu lạc bộ tại giải quốc gia |
Ihor Ivanovych Belanov (tiếng Ukraina: Ігор Іванович Бєланов), (sinh ngày 25 tháng 9 năm 1960 tại Odessa, Ukraina, khi đó thuộc Liên Xô) là cựu cầu thủ bóng đá người Ukraina, chơi ở vị trí tiền đạo, là cầu thủ đoạt danh hiệu Quả Bóng Vàng năm 1986[1].
Belanov từng chơi cho SKA Odessa (1979-80), FC Chornomorets Odessa (1981-84) và Dynamo Kyiv (1985-89). Ông đã có được một Cúp C2 vào năm 1986 với Dynamo Kyiv. Ông đã từng lập một hat trick cho Liên Xô tại World Cup 1986 trong trận thua Bỉ. Tổng cộng, ông đã thi đấu 33 trận cho đội tuyển và ghi được 8 bàn thắng.
Sau một thời gian dài chờ đợi, đến năm 1989 Belanov mới được phép chơi cho một câu lạc bộ Tây Âu (các cầu thủ Liên Xô thời gian trước đó không được phép chơi cho các câu lạc bộ ngoài Liên Xô). Ông chuyển đến chơi cho câu lạc bộ Borussia Mönchengladbach, đá trận đầu tiên ở Bundesliga vào ngày 4 tháng 11 năm 1989, là trận thua 0-4 của Mönchengladbach trước VfB Stuttgart. Trong 24 trận đấu tại Bundesliga trong màu áo của đội bóng từng đoạt Cúp UEFA, Belanov ghi được 4 bàn, nhưng thất bại trong việc tạo dấu ấn với đội bóng đang có nguy cơ xuống hạng. Sự nghiệp của ông ở Mönchengladbach kết thúc đột ngột khi vợ ông lấy cắp đồ ở một cửa hàng. Ông chuyển xuống đội bóng hạng thấp hơn là Eintracht Braunschweig và ghi được 13 bàn trong 38 trận ở giải hạng Hai của Bundesliga. Sau đó, ông trở về quê hương, thi đấu cho Chernomorets (1995-96) và Metalurh Mariupol (1996-97).
Trở thành thương gia sau khi giải nghệ, Belanov trở thành cổ đông chính của câu lạc bộ Thuỵ Sĩ FC Wil vào tháng 8 năm 2003. Người tiền nhiệm của ông ở chức vụ chủ tịch FC Wil, là một chủ ngân hàng tên là Andreas Hafen, đã chịu 5 năm tù vì tội biển thủ 10 triệu euro. Việc đầu tiên Belanov thực hiện là thay thế huấn luyện viên hiện tại của câu lạc bộ Martin Andermatt bằng đồng đội cũ của ông ở Dynamo Kyiv là Aleksandr Zavarov, mà không chú ý rằng Zavarov chưa có giấy phép hành nghề huấn luyện viên của UEFA ở một giải vô địch cao nhất của một quốc gia. Do đó Belanov đã ký hợp đồng với huấn luyện viên của câu lạc bộ FC Karl-Marx-Stadt là Joachim Müller. Chức vụ của Zavarov là giám đốc kĩ thuật. Müller chưa có nhiều kinh nghiệm trong bóng đá đỉnh cao, do vậy đã bị sa thải sau ba tháng và Belanov thay thế bằng Tomas Matejcek. Tuy nhiên cách huấn luyện hà khắc của Matejcek đã làm các cầu thủ FC Wil phản đối. Belanov phải sửa lại các quyết định, tái bổ nhiệm Joachim Müller làm huấn luyện viên và cự thủ môn Thuỵ Sĩ Stephan Lehmann làm trợ lý huấn luyện viên. Những quyết định không hiệu quả đó đã khiến Belanov mất chức chủ tịch và cổ đông chính của câu lạc bộ.
Thống kê sự nghiệp
[sửa | sửa mã nguồn]# | Ngày | Địa điểm | Đối thủ | Bàn thắng | Kết quả | Giải đấu |
---|---|---|---|---|---|---|
1 | 2 tháng 6 năm 1986 | Sân vận động Sergio León Chávez, Irapuato, México | Hungary | 3–0 | 6–0 | World Cup 1986 |
2 | 15 tháng 6 năm 1986 | Sân vận động Nou Camp, León, México | Bỉ | 1–0 | 3–4 | |
3 | 2–1 | |||||
4 | 3–4 | |||||
5 | 11 tháng 10 năm 1986 | Sân vận động Công viên các Hoàng tử, Paris, Pháp | Pháp | 1–0 | 2–0 | Vòng loại Euro 1988 |
6 | 29 tháng 10 năm 1986 | Sân vận động Lokomotiv, Simferopol, Liên Xô | Na Uy | 2–0 | 4–0 | |
7 | 29 tháng 4 năm 1987 | Sân vận động Cộng hòa, Kiev, Liên Xô | Đông Đức | 2–0 | 2–0 | |
8 | 28 tháng 10 năm 1987 | Sân vận động Lokomotiv, Simferopol, Liên Xô | Iceland | 1–0 | 2–0 |
Tham khảo
[sửa | sửa mã nguồn]- ^ Trí, Dân. “Những Quả bóng vàng gây tranh cãi nhất lịch sử”. Báo điện tử Dân Trí. Truy cập ngày 3 tháng 12 năm 2021.
Liên kết ngoài
[sửa | sửa mã nguồn]- Trang sử dụng bản mẫu Lang-xx
- Sinh năm 1960
- Nhân vật còn sống
- Cầu thủ bóng đá Borussia Mönchengladbach
- Cầu thủ bóng đá Dynamo Kyiv
- Cầu thủ bóng đá Liên Xô
- Cầu thủ bóng đá Ukraina
- Quả bóng vàng châu Âu
- Tiền đạo bóng đá nam
- Cầu thủ bóng đá Bundesliga
- Cầu thủ bóng đá nước ngoài ở Đức
- Cầu thủ Giải vô địch bóng đá thế giới 1986