Bước tới nội dung

Cá mú hoa nâu

Bách khoa toàn thư mở Wikipedia
(Đổi hướng từ Epinephelus fuscoguttatus)

Cá mú hoa nâu
Cá trưởng thành
Phân loại khoa học edit
Vực: Eukaryota
Giới: Animalia
Ngành: Chordata
Lớp: Actinopterygii
Bộ: Perciformes
Họ: Serranidae
Chi: Epinephelus
Loài:
E. fuscoguttatus
Danh pháp hai phần
Epinephelus fuscoguttatus
(Forsskål, 1775)
Các đồng nghĩa
Danh sách
    • Perca summana fuscoguttata Forsskål, 1775
    • Perca summana koschar Walbaum, 1792
    • Serranus horridus Valenciennes, 1828
    • Serranus taeniocheirus Valenciennes, 1830
    • Serranus lutra Valenciennes, 1832

Cá mú/song hoa nâu, còn gọi là cá mú cọp, danh phápEpinephelus fuscoguttatus, là một loài cá biển thuộc chi Epinephelus trong họ Cá mú. Loài này được mô tả lần đầu tiên vào năm 1775.

Từ nguyên

[sửa | sửa mã nguồn]

Từ định danh fuscoguttatus được ghép bởi hai âm tiết trong tiếng Latinh: fuscus ("sẫm đen") và guttatus ("lốm đốm"), hàm ý đề cập đến cơ thể đầy các vệt đốm màu nâu sẫm của loài cá này.[2]

Loài bị đe dọa

[sửa | sửa mã nguồn]

Do có giá trị kinh tế và thương mại cao mà cá mú hoa nâu bị đánh bắt quá mức, đặc biệt nhắm vào các đàn sinh sản và bắt cá con để nuôi, trên khắp phạm vi phân bố của chúng. Ngoài ra, sự suy thoái môi trường biển đối với rạn san hô và vấn nạn biến đổi khí hậu cũng ảnh hưởng phần nào đến loài cá này. Do đó, cá mú hoa nâu được xếp vào mức Loài sắp nguy cấp trong Sách đỏ IUCN.[1]

Phân bố và môi trường sống

[sửa | sửa mã nguồn]

Cá mú hoa nâu có phân bố rộng khắp Ấn Độ Dương - Thái Bình Dương và cả Biển Đỏ (nhưng không được tìm thấy ở vịnh Ba Tư), từ Đông Phi trải dài về phía đông đến quần đảo Samoaquần đảo Phoenix, ngược lên phía bắc đến miền nam Nhật Bản, xa về phía nam đến Úc.[1]

Cá mú hoa nâu trưởng thành cư trú trên các ám tiêu và trong đầm phá có nhiều san hô, cá con thì sống trong thảm cỏ biển, khu vực cửa sông hoặc các vùng nước ven bờ có độ mặn thấp. Loài này được tìm thấy ở độ sâu đến 70 m.[1]

Chiều dài lớn nhất được biết đến ở cá mú hoa nâu là 120 cm, với khối lượng lớn nhất có thể đạt được là khoảng 11 kg.[3] Cơ thể màu vàng nâu nhạt với 5 hàng vệt đốm nâu sẫm. Đầu, thân và các vây phủ dày đặc các chấm nâu nhỏ sát nhau, những chấm trên các vệt đốm nâu lớn sẫm màu hơn. Một đốm đen nhỏ ở phía sau cuống đuôi. Có 2 hoặc 3 sọc sẫm mờ ở hai bên hàm.

Số gai vây lưng: 11; Số tia vây lưng: 14–15; Số gai vây hậu môn: 3; Số tia vây hậu môn: 8; Số tia vây ngực: 18–20; Số vảy đường bên: 52–58.[4]

Sinh thái

[sửa | sửa mã nguồn]

Thức ăn của cá mú hoa nâu bao gồm nhiều loại cá nhỏ hơn, cuađộng vật chân đầu. Loài này chủ yếu hoạt động vào lúc chập tối.[3]

Giống lai

[sửa | sửa mã nguồn]

Cá mú trân châu là loài cá lai của giữa cá mú nghệ đực (E. lanceolatus) và cá mú hoa nâu cái, được sản xuất giống thành công bởi nhiều nước như Trung Quốc, Indonesia, Malaysia, PhilippinesViệt Nam.[5] Cá lai có giá trị kinh tế cao, quy mô nuôi trồng thủy sản tăng hàng năm do chúng nổi trội hơn các loài cá mú khác về tốc độ sinh trưởng, chất lượng thịt, cũng như khả năng thích nghi với môi trường sống.[6]

Hồng Kông, giá cả phải chăng và kích thước to lớn nên cá mú trân châu là lựa chọn phổ biến cho các hoạt động phóng sinh.[7] Chính vì điều đó mà loài cá lai này đã phát triển mạnh mẽ trong tự nhiên ở Hồng Kông và sống trong môi trường tương tự như những loài Epinephelus bản địa. Không những vậy, cá mú trân châu còn ăn nhiều loại con mồi mà cá mú bản địa khác thường không ăn, như họ Cá mào gàhọ Mực ống.[8] Việc cá mú trân châu tận dụng ổ sinh thái còn trống, cùng với bằng chứng về khả năng tạo ra thế hệ con lai F2 khỏe mạnh,[9] cho thấy cá mú trân châu có khả năng thiết lập quần thể tại đây, đe dọa đến hệ sinh thái biển.[8]

Thương mại

[sửa | sửa mã nguồn]

Cá mú hoa nâu là loài có giá trị thương mại trong nghề cá xuất khẩu ở Đông Nam ÁTrung Quốc. Nhiều cá thể cũng bị đánh bắt từ tự nhiên để phục vụ cho mục đích nuôi trồng thủy sản.[1] Tuy nhiên, thịt của loài này có thể gây ngộ độc ciguatera ở vài nơi trên Thái Bình Dương.[4]

Tham khảo

[sửa | sửa mã nguồn]
  1. ^ a b c d e Rhodes, K.; Sadovy, Y. & Samoilys, M. (2018). Epinephelus fuscoguttatus. Sách đỏ IUCN về các loài bị đe dọa. 2018: e.T44673A100468078. doi:10.2305/IUCN.UK.2018-2.RLTS.T44673A100468078.en. Truy cập ngày 23 tháng 2 năm 2025.Quản lý CS1: sử dụng tham số tác giả (liên kết)
  2. ^ Christopher Scharpf biên tập (2024). “Order Perciformes (part 5)”. The ETYFish Project Fish Name Etymology Database.
  3. ^ a b Ranier Froese và Daniel Pauly (chủ biên). Thông tin Epinephelus fuscoguttatus trên FishBase. Phiên bản tháng 10 năm 2024.
  4. ^ a b P. C. Heemstra (2022). “Epinephelidae”. Trong Phillip C. Heemstra; E. Heemstra; David A. Ebert; W. Holleman; John E. Randall (biên tập). Coastal fishes of the western Indian Ocean (quyển 3) (PDF). South African Institute for Aquatic Biodiversity. tr. 56-57.Quản lý CS1: nhiều tên: danh sách biên tập viên (liên kết)
  5. ^ Nguyễn Văn Nam; Đoàn Thanh Loan; Kim Văn Vạn (2022). “Thử nghiệm ương nuôi cá mú lai bằng công nghệ BIOFLOCS”. Tạp chí Khoa học - Công nghệ Thủy Sản. Trường Đại học Nha Trang. 4: 35–41. doi:10.53818/jfst.4.2022.24. ISSN 1859-2252.Quản lý CS1: sử dụng tham số tác giả (liên kết)
  6. ^ Trương Quốc Thái; Nguyễn Văn Dũng; Nguyễn Khắc Đạt; Nguyễn Thị Thu Hằng (2021). “Ảnh hưởng của thức ăn và mật độ ương cá song lai (♂ E. lanceolatus x ♀ E. fuscoguttatus) từ giai đoạn cá bột lên cá hương” (PDF). Tạp chí Khoa học và Công nghệ Biển. 21 (2): 149–159. doi:10.15625/1859-3097/16409. ISSN 1859-3097.Quản lý CS1: nhiều tên: danh sách tác giả (liên kết)
  7. ^ “HKU Ecologists Uncover Significant Ecological Impact of Hybrid Grouper Release through Religious Practices”. Đại học Hồng Kông. 19 tháng 1 năm 2025. Truy cập ngày 23 tháng 2 năm 2025.
  8. ^ a b Chung, Arthur; Schunter, Celia (2025). “Distinct resource utilization by introduced man-made grouper hybrid: an overlooked anthropogenic impact from a longstanding religious practice”. Reviews in Fish Biology and Fisheries. 35 (1): 391–407. doi:10.1007/s11160-024-09907-6. ISSN 1573-5184.
  9. ^ Ching, Fui Fui; Othman, Norazmi; Anuar, Azaharie; Shapawi, Rossita; Senoo, Shigeharu (2018). “Natural spawning, embryonic and larval development of F2 hybrid grouper, tiger grouper Epinephelus fuscoguttatus × giant grouper E. lanceolatus”. International Aquatic Research. 10 (4): 391–402. doi:10.1007/s40071-018-0214-5. ISSN 2008-6970.