Bước tới nội dung

Dũng khí

Bách khoa toàn thư mở Wikipedia
(Đổi hướng từ Dũng cảm)

Dũng khí (勇氣, tiếng Anh: courage) còn gọi là lòng dũng cảm, sự can đảm là khí phách dám đương đầu với khó khăn, thử thách, nguy hiểm để làm những việc nên làm, hoặc chí khí mạnh mẽ trong chiến đấu, bất chấp sợ hãi. Những người có dũng khí to lớn được gọi là dũng sĩ, dũng khí cũng là phẩm chất cơ bản của một anh hùng.[1]

Dũng khí về thể chất là lòng dũng cảm khi đối mặt với nỗi đau thể xác, khó khăn, thậm chí là cái chết hoặc bị đe dọa tử vong; trong khi dũng khí về đạo đức là khả năng hành động đúng đắn khi đối mặt với sự phản đối của quần chúng, sự xấu hổ, tai tiếng, sự chán nản hoặc mất mát cá nhân.[2]

Trong truyền thống phương Đông, thần thoại Ấn Độ giáo đã đưa ra nhiều quan niệm về dũng khí, lòng dũng cảm và sự can đảm, trong đó có những ví dụ về dũng khí cả về thể chất lẫn đạo đức. Còn trong Đạo Đức kinh của Đạo giáo Trung Quốc, Lão Tử cũng đưa ra nhiều suy nghĩ về dũng khí.

Quan niệm của Nho giáo

[sửa | sửa mã nguồn]

Theo quan niệm của Nho giáo, dũng là một trong ba đức tính của quân tử, bao gồm nhân (仁), trí (智) và dũng (勇). Trong sách Luận ngữ, Khổng Tử có nói: "Quân tử đạo giả tam, ngã vô năng yên: nhân giả bất ưu, trí giả bất hoặc, dũng giả bất cụ". Nghĩa là: Đạo quân tử có ba điều mà ta chẳng làm được một: kẻ nhân từ thì không lo buồn, kẻ trí thức thì không nghi hoặc, kẻ dũng cảm thì không sợ hãi.

Về sau, Mạnh Tử thay "dũng" bằng "lễ, nghĩa" nên ba đức tính trở thành bốn đức tính gồm: "nhân, nghĩa, lễ, trí". Các nho gia thêm một đức tính là "tín" nên có tất cả năm đức tính là: "nhân, nghĩa, lễ, trí, tín" và được gọi là ngũ thường.

Đặc điểm của dũng khí

[sửa | sửa mã nguồn]

Nỗi sợ hãi và sự tự tin liên quan đến dũng khí

[sửa | sửa mã nguồn]

Theo Giáo sư Daniel Putman, "dũng khí bao gồm sự lựa chọn có chủ ý khi đối mặt với những hoàn cảnh đau đớn hoặc sợ hãi vì một mục tiêu xứng đáng".[3] Với nhận thức này, Putman kết luận rằng "có mối liên hệ chặt chẽ giữa nỗi sợ hãi và sự tự tin"[4].  Sự sợ hãi và tự tin liên quan đến dũng khí có thể quyết định sự thành công của một hành động hoặc mục tiêu Chúng có thể được coi là những biến số độc lập về dũng khí và mối quan hệ của chúng có thể ảnh hưởng đến cách chúng ta phản ứng với nỗi sợ hãi. Sự tự tin đang được bàn đến ở đây là sự tự tin; tự tin vào việc biết các kỹ năng và khả năng của mình và có thể xác định khi nào nên chống lại nỗi sợ hãi hoặc khi nào nên chạy trốn nó. Putman nói rằng: "Lý tưởng về dũng khí không chỉ là sự kiểm soát cứng nhắc nỗi sợ hãi, cũng không phải là sự phủ nhận cảm xúc. Lý tưởng là phán đoán một tình huống, chấp nhận cảm xúc như một phần bản chất con người và chúng tôi hy vọng sẽ sử dụng tốt." -phát triển những thói quen để đương đầu với nỗi sợ hãi và cho phép lý trí hướng dẫn hành vi của chúng ta hướng tới một mục tiêu đáng giá."

Theo Putman, Aristotle đề cập đến mức độ sợ hãi và tự tin thích hợp vào dũng khí. "Nỗi sợ hãi, mặc dù có thể khác nhau ở mỗi người, nhưng không hoàn toàn tương đối và chỉ thích hợp nếu nó 'phù hợp với mức độ nguy hiểm của tình huống'".  Điều tương tự cũng xảy ra với sự tự tin rằng có hai khía cạnh của sự tự tin trong một tình huống nguy hiểm:

  1. "Một niềm tin thực tế vào giá trị của một mục đích thúc đẩy hành động tích cực."
  2. "Biết các kỹ năng và khả năng của chính chúng ta. Ý nghĩa thứ hai của sự tự tin phù hợp là một hình thức tự hiểu biết."

Nếu không có sự cân bằng thích hợp giữa nỗi sợ hãi và sự tự tin khi đối mặt với mối đe dọa, người ta không thể có đủ dũng khí để vượt qua nó. Giáo sư Daniel Putman tuyên bố "nếu hai cảm xúc này khác biệt thì sự thái quá hoặc thiếu sót trong nỗi sợ hãi hoặc sự tự tin có thể bóp méo sự dũng cảm".  Dũng không có nghĩa là bạn không sợ hãi, mà là bạn sẵn sàng đối mặt với những thử thách phía trước.

Có thể bóp méo dũng khí

[sửa | sửa mã nguồn]

Theo Putman, có bốn cách có thể khiến dũng khí bị bóp méo:

  1. "Mức độ sợ hãi cao hơn mức yêu cầu của tình huống, mức độ tự tin thấp". Những người như thế này sẽ bị coi là kẻ hèn nhát;
  2. "Mức độ sợ hãi quá thấp khi nỗi sợ hãi thực sự là mức độ tự tin thích hợp, mức độ tự tin quá cao". Một người như thế này sẽ bị coi là liều lĩnh ;
  3. "Mức độ sợ hãi quá cao, nhưng sự tự tin cũng cao quá mức". Khả năng thứ ba có thể xảy ra nếu ai đó trải qua một trải nghiệm đau thương khiến họ vô cùng lo lắng trong suốt cuộc đời. Sau đó, họ sợ rằng trải nghiệm của họ thường không phù hợp và quá mức. Tuy nhiên, với tư cách là một cơ chế phòng thủ, người đó sẽ thể hiện mức độ tự tin quá mức như một cách để đối mặt với nỗi sợ hãi phi lý của mình và "chứng minh" điều gì đó với chính mình hoặc người khác". Vì vậy, sự bóp méo này có thể được coi là một phương pháp đối phó với nỗi sợ hãi của họ.
  4. "Mức độ sợ hãi quá thấp và mức độ tự tin thấp". Đối với khả năng cuối cùng, nó có thể được coi là sự vô vọng hoặc thuyết định mệnh.

Do đó, Putman xác định nỗi sợ hãi và dũng có mối liên hệ sâu sắc với nhau và chúng dựa trên những nhận thức riêng biệt: "mối nguy hiểm của tình huống", "sự xứng đáng của nguyên nhân", "và nhận thức về khả năng của một người"

Tham khảo

[sửa | sửa mã nguồn]
  1. ^ “Định nghĩa của dũng khí”.
  2. ^ “Pianato, Matthew (2012). "Lòng can đảm đạo đức và đối mặt với người khác". Nghiên cứu triết học . 20 (2): 165–184”.
  3. ^ “Putman 2001”.
  4. ^ “Putman 2001, trang 464”.